Đá trắng, cỏ xanh và Thầy!
Mái ngói đen xám xuyên qua nhành dương liễu buông rũ thướt tha trong gió, cùng với tường vách màu nâu trắng là linh hồn của kiến trúc Tu viện - nét kiến trúc cổ kính, thanh thoát bình dị, không tô vẻ lộng lẫy. Màu nâu đến đôn hậu, màu trắng đến thánh thiện mang đến vẻ "chững chạc" và thái độ ôn hoà, phản phất phong thái tự nhiên như hòa tan vào trong ngàn vạn sắc thái của cuộc sống. Mỗi viên đá trắng trên lối đi, mỗi nhánh hoa, cọng cỏ nơi hóc đá dường như đều có hồn người thổi vào.
Trong không gian tỉnh lặng, thoang thoảng hương mai thanh khiết, những hồi ức quá khứ như diễn lại. Dưới ánh mặt trời nhìn mai nở, cánh hoa hồn nhiên, khoáng đạt, xuất chúng hơn bất cứ đóa hoa nào. Mai có khí khái vậy là nhờ mùa đông giá làm cho tinh tuý tích tụ để rồi xuân về tỏa ngát hương thơm, như Hoàng Bá thiền sư nói: "Nếu chẳng một phen lạnh buốt sương, hoa mai đâu dễ được mùi hương". Nó cũng phù hợp với lời dạy của Thầy: “Làm người, nhất là người tu phải có chí khí, đừng ngại khó khăn, chính khó khăn sẽ tôi luyện ta thành người”.
Nhìn ngôi phạm vũ hôm nay, tôi muốn tìm về quá khứ, lục lại những hình ảnh cũ trong ký ức của những người tiền bối ở đây. Được nghe một vài Phật tử kỳ cựu, thâm niên kể về Thầy trong những ngày đầu ở Khánh An mà lòng bồi hồi xúc động. Cô kể: “Là người cố cựu ở đây, cô biết Thầy từ những ngày đầu về Tu viện. Nơi đây lúc trước tiêu điều và ít người lắm. Không ai có thể nghĩ từ một vùng nước trũng, lầy lội lại mọc lên một ngôi Tu viện cao ngất, khang trang như bây giờ. Những ngày đầu Sư phụ về đây khổ vô cùng. Có lúc vô chùa cậy cối um tùm, cảnh trí lạnh lẻo, vắng tanh, không một bóng người.
Chùa trông nhỏ, thấp, đà kèo làm bằng tre, nứa đã mối mọt. Bước vào, người có tướng cao phải cúi đầu kẻo không thì đụng mái. Nơi thờ Phật thì trũng, thấp. Có vài chú tiểu nhỏ ở với Thầy. Mỗi giờ trưa và chiều là các chú lội bì bõm vào . . . "Đại hùng bửu điện" để .... cúng ngọ và công phu. Tối, Phật tử về đông hơn, 5 giờ chiều thì phải bơm nước ra ngoài, lau cho sạch, ráo để 7 giờ tối tụng kinh. Phòng Thầy ở - thực ra là một góc nhà - sát với các bàn vong, chỉ cách tấm vách mỏng. Thầy nằm trên chiếc đơn củ kỹ. Đó là cái đơn ngày trước cố HT. Hồng Lạc nằm rồi viên tịch. Trên trần, Thầy lấy mấy tấm áo mưa, cũng không được lành lặng căn che ở trên, không phải che mưa, nắng mà là để phòng . . . ngói rớt xuống đầu.
Xuống bếp nhìn bà Hai - mẹ Thầy nấu cơm cho Thầy mà thấy thương lắm. Bà nấu cơm trong một chiếc nồi nhôm nhỏ, móp méo, nắp không theo nồi, bên ngoài đầy lọ đen vì khói củi. Thức ăn cũng chẳng có gì, mấy cọng rau muống dưới mương, vài nắm rau cải sau vườn, hễ có được gì thì hái nấy, mang vô mà kho mà xào. Bây giờ ngẫm lại thật nhiều kỷ niệm về Thầy.”
Ngẫm về Thầy rồi suy lại hàng xuất gia thế hệ của chúng tôi, thân ở thế tục phồn hoa quá nhiều mê hoặc khiến con người khó cự tuyệt. Cùng đi giữa thế gian có những người phải nếm hết khói lửa nhân gian mới chịu thôi, có những người lòng đã sớm giác ngộ muốn tìm lại bản tâm mình. Những lúc suy ngẫm về chuyện đã qua tôi lại nghĩ đến lời Thầy: “Thầy tu lúc trước khổ và thiếu thốn đủ đều nhưng ngẫm lại Thầy sướng hơn các con nhiều lắm, vì có "chất liệu" để tu. Chính cái gian khó đã hun đúc ý chí tu hành của Thầy. Tụi con tu thời nay sướng về vật chất nhưng trong mắt Thầy các con khổ hơn Thầy, khổ vì bị cám dỗ bởi thinh sắc thế gian, khổ vì bị vật chất đang bao vây các con, nếu không đủ sức vượt qua các con sẽ gãy đổ trên đường tu hành. Xã hội ngày nay chẳng khác gì một ma trận, khó ai thoát được lắm.”
Vạn sự trong nhân gian đều vô thường, chỉ có buông xuống mới có thể ung dung tự tại thể nghiệm cái ảo hóa như bong bóng của thế gian.
Chiều 30 tết, đứng bên lan can nhìn ngắm cảnh vật có vẻ bình thường, nhàn nhã tại Tu viện, trong ngọn gió mát lật giở từng trang sách làm lòng người lắng đọng, cảm nhận thời gian cứ trôi đi qua sự vô thường của vạn vật. Bất chợt, nghe Thầy Trung Nghiêm nói Thầy bệnh cả đại chúng lên thăm. Nhìn Thầy tự nhiên lòng tôi thắt lại. Thầy nằm đó trong dáng vẻ hết sức mệt mỏi, không nói năng gì. Đây là lần đầu tiên tôi thấy Thầy mệt mỏi như thế. Lúc khỏe lại chút xíu thì Thầy lại đùa: “Tí nữa là cáo phó rồi". Thầy mệt mấy bữa nay nhưng Thầy gắng, Tết đến không thể bỏ việc chùa được, nếu Thầy nằm sẽ nằm luôn. Nhìn hình ảnh đó tôi miên man suy nghĩ, cả đời Thầy vì tâm nguyện tiếp Tăng độ chúng, hướng dẫn Phật tử tu học không ngại gian nan khó nhọc. Hình như Thầy tôi có khí khái của nhánh mai Trần Nhân Tông:
“Kiên cường sắt đá nhờn sơn tuyết
Mộc mạc khăn xiêm đón gió đông”
Giữa dòng đời xuôi ngược, Thầy đã đưa bao người bước lên đường đạo, cũng như ông lái đò đưa khách sang sông. Không biết được mấy ai lên bờ rồi một lần ngoảnh nhìn lại chiếc đò đã đưa mình sang sông. Có lẽ Thầy cũng không mong cầu ai nghĩ đến mình, như Thầy vẫn thường dạy về hai chữ “Tùy Duyên” và “Chỉ cần chúng ta đem tâm thiện lành giúp người là đủ rồi”, đừng quan trọng ai nghĩ về mình.
Với tôi, mỗi ngày dù có gặp Thầy hay không, tôi vẫn nhìn thấy Thầy trong từng viên ngói trên mái Tu viện, nơi vách trắng, cửa nâu, nơi từng viên đá, hàng cỏ, bờ cây; nơi đã che chở, đùm bọc tôi, huynh đệ tôi và cả những người có tấm lòng hướng về Đức Phật.
Khánh An, ngày đầu xuân Đinh dậu
Trung Nhã