Tu viện Khánh An

CHÁNH NIỆM TRONG THIỀN TẬP

Chánh niệm được xem là xương sống của thiền tập, là nền tảng cơ bản để thành tựu chỉ - quán. Nhưng, chánh niệm trong chỉ và quán lại có sự khác biệt, trong khi thiền chỉ hướng đến sự định tâm thì thiền quán lại hướng đến thành tựu minh sát trí đưa đến thánh Đạo – Quả.
Danh mục: 
Đời sống - Tu học

Trong thiền chỉ, có nhiều đề mục thiền khác nhau có thể dẫn đến thành tựu các bậc thiền. Đó có thể là đề mục niệm hơi thở, đề mục niệm Đức Phật, hoặc đề mục 10 kasina (4 kasina màu là trắng, xanh, vàng, đỏ và đất, nước, lửa, gió, ánh sáng, hư không),… Trong các đề mục thiền chỉ này, chánh niệm có chức năng quan trọng là ghi nhớ đề mục, hành giả khi hành thiền này thì nên cố gắng chánh niệm trên đề mục như là một đối tượng duy nhất, hành giả không nên chú ý gì ngoài đề mục mình đã chọn vì như vậy là phi như lí tác ý, vì khi phi như lý tác ý hành giả sẽ phân tán niệm tới nhiều đối tượng dẫn đến định tâm không thành tựu. Chẳng hạn như, khi hành thiền chỉ, sự đau và khó chịu khởi lên nơi hành giả, nếu hành giả để tâm chú ý tới nó mà bỏ quên đề mục thiền của mình đã chọn thì được xem là phi như lý tác ý, sự tác ý này dẫn đến niệm của hành giả buông khỏi đề mục, như vậylà hành giả đang thất niệm trong đề mục thiền chỉ này. Trường hợp sự khó chịu này xảy ra, hành giả chỉ nên nhận biết và tiếp tục chánh niệm trên đề mục thiền. Ở đây, sự kham nhẫn là điều cần cố gắng.

Nếu thành tựu được thiền chỉ, nó sẽ mang lại những lợi ích rất quan trọng. Định trong thiền chỉ sẽ tạo ra năng lực ánh sáng rực rỡ giúp hành giả dễ dàng nhận biết danh – sắc chân đế để hành thiền quán. – sắc. Mặt khác, thiền chỉ tạo ra một nơi nghỉ ngơi trong sự an lạc của định, thứ mà trong thiền quán không có được do hành giả phải phân biệt danh – sắc quá nhiều. Có thể ví, hành thiền quán như người chiến sĩ ra chiến trận, trong khi thiền chỉ là tường thành để nghỉ ngơi. Sự nghỉ ngơi trong thiền chỉ sẽ làm tâm hành giả thấy an ổn rồi trở lại với thiền quán. Đó là những lợi ích do năng lực của định trong thiền chỉ mang lại.

Nhưng chỉ với thiền chỉ thì chưa đủ để giải thoát sanh tử. Con đường thiền cứu cánh nhất là thiền quán, với sự thành tựu tuệ quán là con đường dẫn đến thánh đạo – quả.

Trong thiền quán, bước khởi đầu là phân tích danh – sắc, chỉ khi nào hiểu rõ cái gìlà danh, cái gì là sắc thì hành giả mới bắt đầu bước vào con đường hành thiền quán, nghĩa là phải phát triển minh sát trí trên đối tượng là chân đế của danh sắc, của ngũ uẩn, chứ không phải bằng đối tượng tục đế như ghi nhận đây là đàn ông, đây là đàn bà, là người, là vật, … Vì vậy, chánh niệm trong thiền quán là nền tảng để phát triển minh sát trí, để hiểu rõ bản chất của danh và sắc, các nhân của chúng, để thấy rõ đặc tính vô thường – khổ - vô ngã của danh – sắc. Trong kinh Đại Niệm Xứ, chánh niệm này được Phật dạy là thiết lập chánh niệm trên bốn đối tượng thân – thọ - tâm – pháp (sắc – danh), mục đích để làm gì, như Phật nói trong kinh, đó là một phương pháp đưa chúng sanh vượt thoát mọi tham ưu ở đời, nghĩa là hướng đến sự xả ly, chứng ngộ và an trú vững vàng trong sự xả ly, không còn nắm bắt bất cứ thứ gì trên đời. 

Như vậy, chánh niệm trong thiền chỉ có chức năng luôn bám sát đề mục thiền như là một cảnh tục đế (như đề mục niệm hơi thở, quán bất tịnh, niệm Đức Phật,…); trong khi, trong thiền quán, chánh niệm đi cùng tỉnh giác có chức năng thẩm sát danh – sắc (chân đế) trên bốn đề tài thân – thọ - tâm – pháp. Đó là điểm khác nhau giữa chánh niệm trong chỉ và quán.

Chúng ta biết rằng, Niệm – Định – Tuệ là con đường rốt ráo của thiền tập, nhưng chúng ta cần lưu ý, niệm ở đây không nên hiểu gói gọn như là một chánh niệm tách biệt khỏi Bát Thánh Đạo. Ngược lại, người hành thiền phải y cứ trên bát Thánh Đạo (Giới – Định – Tuệ), dù chánh niệm được coi là nền tảng của thiền tập, song nó phải đi cùng với 7 chi thánh đạo còn lại, không một ai có thể thành tựu thánh đạo – quả nếu như khuyết bát thánh đạo.

Về tác dụng của con đường chỉ - quán, Phật dạy trong kinh Tương ưng, chương 9, Tương Ưng Vô Vi, Phần hai, phẩm hai.

“Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về vô vi, và về con đường đưa đến vô vi. Hãy lắng nghe.

Này các Tỷ-kheo, thế nào là vô vi? Này các Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si; này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô vi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến vô vi? Chỉ, này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến vô vi.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta thuyết về vô vi, Ta thuyết về con đường đưa đến vô vi.

Này các Tỷ-kheo, những gì một bậc Đạo sư cần phải làm cho những đệ tử, vì hạnh phúc, vì lòng từ mẫn, vì khởi lên lòng từ mẫn đối với họ; tất cả, Ta đã làm cho các Ông.

Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống, hãy tu tập Thiền định. Chớ có phóng dật. Chớ để hối hận về sau. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.

Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về vô vi và con đường đưa đến vô vi. Hãy lắng nghe.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vô vi? Này các Tỷ-kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si ; này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô vi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường đưa đến vô vi? Quán, này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến vô vi.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, Ta thuyết về vô vi, Ta thuyết về con đường đưa đến vô vi.

Này các Tỷ-kheo, những gì một bậc Đạo sư cần phải làm cho những đệ tử, vì hạnh phúc, vì lòng từ mẫn, vì khởi lên lòng từ mẫn đối với họ; tất cả, Ta đã làm cho các Ông.

Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống, hãy tu tập Thiền định. Chớ có phóng dật. Chớ để hối hận về sau. Đây là lời giáo giới của Ta cho các Ông”.

Đoạn kinh văn trên, Phật đã chú trọng đến sự chỉ và quán là con đường giải thoát tối hậu, thực tế vẫn có một số hành giả tu thuần quán, song sự thuần quán này cũng cần phải có sát na định hỗ trợ, như vậy định cũng có trong hành giả tu thuần quán song nó không mạnh bằng an chỉ định. Cần lưu ý, hành giả cần phải phân biệt rạch ròi giữa chỉ (Định) và quán (Tuệ), nếu không hành giả sẽ bị các yếu tố như an lạc, hạnh phúc, các ấn chứng của định dẫn đến sự đắm chìm trong sự hưởng thụ mà hành giả lầm tưởng rằng đó là hạnh phúc của niết bàn; mặt khác, các yếu tố mệt mõi, căng thẳng trong thiền quán sẽ làm hành giả thối tâm, hoặc các minh sát trí sanh khởi sẽ làm hành giả lầm tưởng rằng đó là trí tuệ giải thoát. Nếu hành giả không phân biệt được chỉ và quán và thành tựu nó thì việc hành thiền chỉ là một phương pháp dưỡng sinh thông thường có thể giúp hành giả thư giản, khỏe mạnh và trị liệu mà thôi. Đó là lí do, hành thiền Phật giáo cần phải có một lộ trình rõ ràng, đúng với Kinh tạng và các bản chú giải hướng dẫn, việc hành thiền như vậy mới đạt đến giải thoát sau cùng.

Trung Nhân