Tu viện Khánh An

Phân Biệt Giữa Ước Muốn Và Ái Dục

Một lần vua Ba Tư Nặc hỏi Ngài A Nan: “ Đức Phật dạy để được giải thoát thì không nên có lòng mong cầu hay ước muốn bất cứ thứ gì trên đời, nhưng nếu không có ước muốn thì làm sao thành tựu”.
Danh mục: 
Đời sống - Tu học

 Ngài A Nan đã trả lời: “Phải có muốn mới có đi, đến rồi thì không còn muốn nữa”.

Cũng cùng ý nghĩa này, Trong kinh Tương-ưng, Ngài Ānanda đã trả lời Bà-la-môn Unnābha rằng:
- Này Bà-la-môn, ngươi nghĩ thế nào! Có phải trước có lòng dục (ý muốn) thúc đẩy ngươi: "Ta sẽ đi đến khu vườn". Sau khi ngươi đến khu vườn rồi, lòng ước muốn ấy được tịnh chỉ?".
- Thưa vâng! tôn giả.

Trong Bốn pháp Như-ý túc (Caṭṭāra-iddhipāda), bốn căn-bản cho sự thành-tựu (iddhipāda) là:
1- Chandiddhipāda: Dục như-ý túc.
2- Vīriyiddhipāda: Cần như-ý túc.
3- Ciṭṭiddhipāda: Tâm như-ý túc.
4- Vimaṃsiddhipāda: Trí như-ý túc.

Hay nói gọn là Dục, Cần, Tâm, Thẩm, trong A Tỳ Đàm gọi bốn tâm sở này là trưởng duyên thuộc 24 duyên hệ. Trong đó yếu tố “dục” hay “chanda”là tâm sở vô cùng quang trọng, được nhấn mạnh và đưa lên vị trí đầu tiên. Vì nếu không có ước muốn thì không thể bắt đầu làm được việc gì.

Trong thuật ngữ kinh điển Hán Tạng thường dùng chữ “Dục” chung cho “ước muốn” và “tham ái”, đều này dẫn đến nhằm lẫn cho rằng tu là không cần “ước muốn”. Trong kinh Phật dạy người  tu phải xa lìa “tham ái” chứ không phải không có “ước muốn”. Như trong lời khai thị của Ngài Ajchah: “Nếu không có ước muốn thì làm sao tu hành? Chúng ta phải có ý muốn thực hành. Đức Phật cũng có ước muốn vậy. Ước muốn luôn luôn có mặt, đó chỉ là điều kiện của tâm. Người có trí tuệ vẫn có ước muốn nhưng họ không chấp trước, dính mắc.”

Trong kinh điển Pali hay Sanskrit phân biệt rất rõ hai thuật ngữ này. Từ “Dục” được hiểu là “ước muốn” là chandaChanda là muốn, là muốn làm, muốn thực hiện cái gì đó... như khi đói muốn ăn, khi khát muốn uống, muốn cắm hoa, muốn đọc sách... Tất cả cái muốn này là tự nhiên, là bình thường; chúng chỉ là ước muốn thuần tuý, chưa có dục, tham, ái gì cả.

Còn “Dục” được hiểu là “ ái dục, dục lạc” là taṇhāTaṇhā là dịch là ái hay dục, còn được dịch là ái dục, dục lạc. Taṇhā này nó nằm khắp ba cõi: Ái cõi dục giới là kāma taṇhā. Ái cõi sắc giới là rūpa taṇhā - tức là chán cõi dục vật chất, mong thụ hưởng hỷ lạc của tinh thần. Ái cõi vô sắc giới là arūpa taṇhā – là chán cõi sắc giới, chỉ mong thụ hưởng trạng thái xả và nhất tâm của cõi vô sắc. Ba cái taṇhā này còn được hiểu sâu thêm một chút khi tu tập minh sát. Nếu ta đang dính mắc, say đắm trong các dục hiện tại (dục lạc ngũ trần) thì gọi là kāma taṇhā. Nếu ta thích thú cái gì đó, mong nó còn mãi bên ta – mong nó thường tồn, cầm giữ, níu giữ mãi sợ nó mất đi thì được gọi là bhava-taṇhā.  Ngược lại, nếu ta không thích cái gì, không vừa lòng điều gì, đối tượng nào, hoàn cảnh nào, ta lại muốn chối bỏ, phủ nhận, muốn chấm dứt, muốn triệt tiêu thì rơi vào abhava-taṇhā, là phi hữu ái (do sân), rơi vào đoạn kiến.

Hành-giả trong khi tu-tập, cần làm khơi dậy ý muốn mãnh-liệt: "chứng đạt pháp thượng-nhân" như sơ-định, nhị-định ... sơ-quả, nhị-quả.... Dục như-ý túc ở phạm vi này chính là ý muốn thoát khỏi khổ luân-hồi, mức độ thấp nhất là quả Dự-lưu, để đoạn lìa thân-kiến, hoài-nghi. Bồ-tát Siddhaṭṭha có ý mong mỏi thoát khỏi già, bệnh, chết, chính mong ước ấy làm nền-tảng cho sự xuất-gia, khiến Ngài cương quyết từ bỏ cung điện, tùy tùng, những xa-hoa quyền quí. Cuối cùng ý muốn ấy lặng yên, khi Ngài thành-tựu giải-thoát và chứng đạt sự giác-ngộ trọn vẹn. Trong Tương-ưng kinh phẩm Tương-ưng như-ý túc, đức Phật có dạy rằng:
- Này chư tỳ-khưu! Có bốn như-ý túc, được tu-tập, được làm cho sung-mãn, sẽ đưa đến từ bờ này sang bờ kia, thành tựu giải thoát. Thế nào là bốn, đó là:
Tu-tập như-ý túc câu hữu với dục định tinh-cần hành.
Tu-tập như-ý túc câu hữu với tấn định tinh-cần hành.
Tu-tập như-ý túc câu hữu với tâm định tinh-cần hành.
Tu-tập như-ý túc câu hữu với tư-duy định tinh-cần hành.
Người không có ước muốn sẽ không thể có được những gì mình cần phải có. Sự nỗ-lực với ước muốn thành-đạt một kết quả tốt đẹp theo như-ý, sự nỗ-lực ấy không hề lãng phí, cho dù chưa thành đạt được mục tiêu.
Trước khi kiết-tập Phật-ngôn lần thứ nhất do trưởng-lão Kassapa chủ trì, trưởng-lão Ānanda không được tham dự vì Ngài còn là vị Thánh Hữu-học. Với sự mong ước được tham dự cuộc kiết-tập này, Ngài tinh-tấn hành-đạo với mong ước đạt được quả vị A-la-hán. Khi cuộc kiết-tập được khai mở, Ngài càng ra sức nỗ-lực với nhiệt-tâm mãnh-liệt, gần cuối đêm Ngài mỏi mệt, khởi lên ý nghĩ: "Ta hãy nghỉ ngơi chút ít, rồi tiếp tục hành-đạo". Khi Ngài vừa đặt mình xuống, Ngài chứng quả Vô-lậu. Do đó, sự nỗ-lực với mục-đích tốt đẹp sẽ mang lại kết quả lớn và lợi lạc lớn.

Lâm Trung.