Đường Về Cực Lạc
Công hạnh của Phật là không thể đo lường, đọc lại tiền kiếp của Phật Thích Ca Mâu Ni thì ta mới thấu được quá trình tu học của bậc đại trí, đại hạnh. Và cũng chính Ngài đã giới thiệu công hạnh của các chư Phật khác cho chúng ta – mà Phật A Di Đà là một biểu tượng của lòng đại bi và đại giác.
Đức Phật đã từng khẳng định – nghiệp quả trí là lãnh vực của chư Phật, là một trong mười Như Lai lực của một bậc Thế Tôn, một vị A La Hán cũng không thể có loại trí này(Kinh Không Thể Nghĩ Được - Tăng Chi Bộ). Chính bởi nghiệp quả trí này mà Ngài đã giới thiệu quốc độ và công hạnh của Phật A Di Đà cho chúng ta.
Thật khó để có thể hình dung về một thế giới có sự sống ngoài cõi địa cầu này bằng mắt thường. Vậy nên, để có thể thấy được cõi đó phải đáp ứng được ba yếu tố tín – hạnh – nguyện. Nếu không có ba yếu tố này, chúng ta nhiều lắm chỉ có thể tin tịnh độ thế gian mà không thể nào thấu rõ tịnh độ xuất thế gian.
Tín chính là cửa ban đầu để vào Cực Lạc. Tín là sự đặt tâm mình trong nhận thức về Cực Lạc mà không bị laychuyển. Phần đông chúng ta rất ít khi thành tựu pháp tín này. Trong kinh A Thấp Bối – Trung A Hàm, bản tương đương kinh số 70: Kinh Kìtàgiri – Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã khiển trách những vị đệ tử không có niềm tin vào lời đấng đạo sư, vì thế Ngài mới dạy cho chúng đệ tử pháp tứ cú sau: “Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy pháp (anudhamma) được khởi lên: "Bậc Ðạo sư là Thế Tôn, đệ tử là tôi. Thế Tôn biết, tôi không biết". Này các Tỷ-kheo, đến với một đệ tử, có lòng tin giáo pháp bậc Ðạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời giáo pháp bậc Ðạo sư được hưng thịnh, được nhiều sinh lực”. và Ngài trong bài kinh Du Hành cũng đã khẳng định với những ai thành tự bất hoại tín nơi tam bảo và thánh giới thì người đó đã thuộc bậc thánh Nhập Lưu. Vậy nên, công đức của niềm tin nơi Phật là vô cùng cao thượng. Có niềm tin này rồi thì bốn pháp còn lại mới có thể khởi sanh nơi bậc trí là tấn, niệm, định và tuệ. Đó là năm chi thiền có công năng đưa đến giải thoát.
Hạnh nghĩa là phương thức hành trì để đạt đến định tâm, chính định tâm này là năng lực để chúng ta có thể tái sanh theo ý muốn. Người hành trì pháp niệm Phật gọi nó là nhất tâm bất loạn, tùy từng cấp độ, nhất tâm bất loạn này có thể là sát na định hay an chỉ định của các bậc thiền (Cũng có thể nói rằng, niệm Phật là một pháp môn thiền định lấy danh hiệu Phật là đề mục). Với năng lực của định, trong kinh Ý Hành – Trung A Hàm, bản tương đương kinh Hành Sanh – Trung Bộ kinh. Phật đã đưa ra sáu yếu tố để tái sanh theo ý muốn là tín, giới, văn, thí, tuệ và nguyện, sáu yếu tố này chính là tín – hạnh – nguyện mà chúng ta cần có.
Nguyện chính là sự hướng tâm trong trạng thái nhất hành hay là trạng thái định. Trong pháp môn niệm Phật, nhất hành này chỉ cho sự hướng tâm về quốc độ của Phật A Di Đà. Đây là cơ sở kinh văn quan trọng cho việc thực hành để sanh về Cực Lạc – một quốc độ của Phật A Di Đà đang giáo hóa. Khác với quốc độ chúng ta, trong kinh Hoa Nghiêm gọi là quốc độ không có Phật thường trụ - ba đời chư Phật đến rồi đi…
Vậy nên, chúng ta tu tập pháp môn gì đi nữa cũng phải có cho mình ba nhân tố tín – hạnh – nguyện, ba nhân tố để có thể giải thoát ngay trong đời này.
Trung Nhân