Pháp Thoại “Hạnh Nguyện Ân Tình” Trong Khoá Tu Sống Tỉnh Thức 31.
Mở đầu pháp thoại Thầy cho biết chính nụ cười và hơi thở bình an là thước đo giá trị cuộc sống của mỗi người. Thầy nói: “Tháng chín này có lễ hội Quán Thế Âm. Vị Bồ Tát này do có hạnh nguyện cứu khổ ban vui cho đời nên mới có tên là Quán Thế Âm.
Thầy trích đọc: “Nhược hữu vô lượng bách thiên vạn ức chúng sinh thọ chư khổ não, văn thị Quan Thế Âm Bồ Tát nhất tâm xưng danh. Quan Thế Âm Bồ Tát tức thời quán kì âm thanh Giai đắc giải thoát”.
Nếu có vô lượng vô số chúng sanh bị khổ, buồn, tuyệt vọng chi phối, kho nghe đến danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, chỉ cần hướng về Ngài, niệm danh hiệu ngài thì mọi phiền não, khổ đau, tuyệt vọng sẽ tan biến, đạt được sự an lạc, giải thoát ngay trong phút giây hiện tại. Nói khác, ai nguyện cầu Ngài, Ngài đều có mặt cho ngời đó.
Thầy cho biết, những ai là con người thì chữ khổ luôn thủy chung, sống chết với mình. Khổ có mặt tạo cho ta cảm giác khó chịu, bất như ý. Mỗi lúc như vậy ta niệm danh hiệu Đức Quán Âm, ngay khi đó Ngài sẽ có mặt cho mình. Ví như lúc mình bệnh có người thăm mình thì tự nhiên tâm mình sẽ cảm thấy hạnh phúc, chính niệm ân tình đã làm tâm ta bình an. Cuộc sống cần lắm những ân tình.
Quá đó Thầy nhấn mạnh, nỗi khổ rất trung thành với chúng ta, khởi ngay trong tâm ta. Nổi khổ mà ta thường gặp là sự sân hận. Theo thói thường, khi bị sân hận ta thường đổi thừa cho đối tượng gây ra, không ai chịu nhìn lại để hiểu rằng đó là do mình không chánh niệm mà xảy đến như vậy, đừng để bên ngoài là đối tượng lôi kéo khiến bất như ý khởi lên. Ông bà mình thường nói bực bội, tức tối, sân giận/ hận. “bực” thì đi với “bội”, tức là sự quay lưng. “Tức thì là tối”, sân thì đi với giận và nặng hơn là hận. Những thứ đó không nằm bên ngoài mà ở trong tâm. Người tu tập cần phải biết chuyển hóa những năng lượng xấu thành năng lượng tốt đẹp hơn. Khi niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm ta cần phải tự soi lại tự tâm, để tâm hoàn toàn vắng lặng, để bình yên. Do đó, niệm Quán Thế Âm là quán xét âm thanh, nghe thấy tận nỗi lòng, tận trái tim mình, để lắng nghe trái tim mình nói gì, ngay đó mình được bình an.
Mượn hình ảnh lửa vật lý Thầy nói đến ngọn lửa tâm lý chi phối tâm chúng sanh. Thầy cho biết: “Lửa có nhiều loại: lửa vật lý, lửa sinh lý trong cơ thể. Và một ngọn lửa nữa đó là ngọn lửa sân giận, nó thiêu đốt tất cả, từ con người đến những dự định trong tương lại. Ta có thể kiểm soát được ngọn lửa này với chánh niệm và từ bi. Ngọn lửa sinh lý là thước đo về sức khỏe, còn ngọn lửa tâm lý là thước đo về mặt tâm linh. Ngọn lửa tâm linh phải luôn luôn có mặt trong ta, một con người không có ngọn lửa tình thương thì sẽ sống vô cảm, hay nếu bị kích động thái quá sẽ dẫn đến mất kiểm soát. Một người không biết kiểm soát ngọn lửa tâm linh sẽ dẫn đến dao động bất an trong cuộc sống. Vì vậy ta phải biết kiểm soát và chuyển hóa năng lượng tâm linh trong mỗi chúng ta. Một cái tâm có sự luyện tập thì sẽ dẫn đến niệm và định. Nếu ta sống chánh niệm và sống bằng tâm của vị Bồ Tát Quán Thế Âm thì ta sẽ có được định lực, biến năng lượng tâm trở thành từ bi yêu thương. Niệm Bồ tát Quán Thế Âm không chỉ niệm suông mà cần phải thực hành theo công hạnh của Ngài.”
Từ đề tài lửa sân hận thiêu đốt tâm chúng sanh, Thầy nói đến nước . Thầy cho biết: “ Nước có một đức tánh vĩ đại, không có gì nhỏ hơn nước, không có gì mạnh hơn nước, trong cơ thể ta nước tồn tại ở dạng máu, mồ hôi, nước mắt..... Tâm sân hận được ví như lửa thì nước là sự luyến ái. Luyến ái như dòng thác lũ nhận chìm chúng sanh trong khổ đau, làm con người đắm nhiễm, có những con người chết vì sắc tướng âm thanh. Qua câu chuyện Trương Chi Mỵ Nương đã nói lên đều này. Nhưng suy cho cùng nó không phải là thực tướng bền vững. Bản thân nước, lửa không phải là cái gì đó xấu, vấn đề là ta sử dụng như thế nào. Nếu dụng tâm đúng cách sự luyến ái sẽ chuyển thành đại bi, lửa sẽ chuyển thành sự nhiệt tâm, tinh tấn độ thoát chúng sanh Niệm Quán Thế Âm giúp ta nhìn thấy được tực tướng, tai nghe mắt thấy không dính mắc vào trần cảnh.
Theo thối thường con người ta thường dính mắc vào âm thanh sắc tướng, khi không đạt được sẽ chuyển sang hận thù. Học hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm là soi chiếu cho kỹ không để cảm xúc đánh lừa mình. Và nói đến đạo Phật là nói đến đạo từ bi. Người sống từ bi, an hòa đơn giản sẽ có hạnh phúc.
Nhấn mạnh về lòng từ bi, Thầy nói: “Sống phải biết quán từ và bi. Từ là ban rải tình thương đến muôn loài. Chướng ngại của tâm từ đó là sự hẹp hòi. Phật dạy tâm ta có khả năng mở rộng đến vô tận vô biên, ta khởi tâm yêu thương tới đâu thì tâm từ bi sẽ đến đó. Đức Phật đã thực hiện có kết quả và Ngài khuyên ta nên thực tập. Ngài khuyên ta thương tất cả mọi loài chúng sanh những loại lớn, những loài nhỏ, những loài ở xa, những loài ở gần....Con người ta thường mạnh được yếu thua, Phật dạy hãy khởi tâm bình đẳng yêu thương tất cả mọi loài. Không chỉ thương động vật mà cả thực vật. Năng lượng từ bi giúp chúng ta mở rộng giao thoa tương với thế giới xung quanh. Nếu chúng ta có dịp đi ra nước ngoài như Châu Âu, Mỹ...Ở đó giữ con người và động vật không có khoảng cách, sự sợ hãi và sống rất hài hòa. Một cái tâm chưa được trong sạch hoàn toàn thì tính ác vẫn tiềm tàng trong mỗi chúng ta. Một con thú không đến với chúng ta vì nó đọc được năng lượng xấu ác từ tâm ta phát ra, sự xấu ác làm ta với môi trường xung quanh có sự cách biệt. Ngày xưa A Nan cứu được một con chim đang bị thương, nó vẫn trong tình trạng rung rẫy khi ôm nó vào lòng.Những khi A Nan mang đến Thế Tôn, con chim vừa thấy Phật liền hết rung rẩy và trở nên khỏe mạnh. A Nan hỏi Phật nguyên nhân, Phật dạy đó là do tâm Như Lai từ bi vô lượng, của sự viên mãn từ bi, cứu độ chúng sinh không toan tính mong cầu nên tạo ra được năng lượng bình an giúp con chim không còn sợ hãi.”
Về cấp độ tâm từ, Thầy cho biết có bốn cấp độ. 1/Cấp độ một là thương những người mình thương, quyến thuộc, bạn bè, những người mình biết. 2/Cấp độ hai là thương người mình không quen biết và rải tâm từ đến họ. 3/Cấp độ ba là thương những người ghét mình, khởi tâm thương họ vì hiểu rằng tâm của họ chưa đủ bao dung, độ lượng và luôn bị sân hận khổ đau. 4/Cấp độ bốn, thương những người thù mình, cấp độ này rất khó.
Kế tâm từ là bi, là động viên an ủi là xoa dịu, làm người khác bớt khổ đau. Để tránh sự nhầm lẫn về từ bi và ai luyến Thầy nhấn mạnh cũng có tình thương dẫn ta đến sự hẹp hồi đó là sự luyến ái, tình cảm nam nữ và ngộ nhận tâm từ là sự luyến ái. Và tâm bi cũng có hiện tượng mang mặt nạ đó là sự ưu sầu ủ dột làm ta mềm lòng ra. Phật dạy ta phải đặt tâm từ bi đúng chỗ. Tâm từ bi cần được nuôi dưỡng, thấp sáng bằng chánh niệm, tỉnh giác.
Kết lời Thầy khuyên đại chúng hãy sống từ bi và thực tập chánh niệm, tỉnh giác để được bình an.
Trung Nhã, Trung Lưu