CHO HƯƠNG TRẦM BAY LÊN, CHO GIỌT BUỒN RƠI XUỐNG
Chùa Giác Minh mới được tổ chức lễ Lạc thành ngày 23/04 Ất mùi nhằm ngày 9/06/2015
Hôm nay, chúng ta cùng nhau về Hội trường Hạ Long - Praha 10 để tổ chức Đại lễ kỷ niệm ngày ra đời của đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni PL 2559-DL 2015. Niềm vui được nhân đôi, khi bà con cộng đồng chúng ta ở tại Trung tâm Thương mại An Đông đã cùng nhau tái thiết một ngôi chùa và đã thành tựu viên mãn để hôm nay chúng ta làm lễ Lạc thành chùa Giác Minh. Xin cho phép tôi thay mặt Hội đồng Giáo thọ, Hội Phật tử Việt Nam tại CH Séc, cũng như với tư cách cá nhân tôi xin kính gửi đến quý khách, lãnh đạo các cơ quan đại diện, các tổ chức hội đoàn, các quý vị Phật tử và bà con kính mến đạo Phật hưởng một mùa Phật Đản sức khỏe, an vui và thành tựu công đức.
Thưa quý vị, cách đây khoảng 1 giờ đồng hồ, ngồi trò chuyện với Ban Lãnh đạo Trung tâm Thương mại, có anh Lâm Tổng Giám đốc rồi có anh Thuấn, Phó Tổng. Anh Thuấn đã nhắc lại cái ngày đầu tiên tôi có mặt tại đây. Tôi không nghĩ anh Thuấn lại có thể nhớ rõ đến thời điểm năm 2006, tức là mười năm trước. Lúc đó, tôi, cụ Hoa Tâm và một vài cụ già đến đây, đến để thăm viếng Ban Lãnh đạo Trung tâm, thăm viếng bà con mình.
Anh Thuấn (bên phải), Phó Tổng Giám đốc TTTM An Đông
Anh Thuấn là nhà kinh doanh có lẽ cái việc ngoại giao rất là quen thuộc, nhưng hôm ấy anh lại tiếp đón một vị thầy. Tôi hình dung là anh có phần lúng túng. Lúng túng vì không biết xưng hô thế nào, không biết chào thế nào và cũng không biết đứng ngồi thế nào? Cái lậm cà lậm cậm thật dễ thương. Anh còn nhắc là, hôm đó đến thăm, ngồi uống nước ở trên lầu phía trước cổng Trung tâm. Sau đó, anh đưa chúng tôi xuống thăm bà con mình, đi đến từng quầy, từng người. Có một số vị còn hỏi tôi: Thầy có khỏe không, gia đình thầy thế nào rồi. Thậm chí còn có những câu hỏi mà nếu như tôi nói ra ở đây chắc quí vị cười vỡ Hội trường. Câu hỏi đó tôi chỉ mỉm cười và chưa có câu trả lời. Đó cũng là đề án mà tôi phải dọc ngang suốt những năm tháng trên đát Séc để tìm lời giải. Bây giờ thì tôi đã có câu trả lời. Tôi trả lời rằng: “Ở đâu có chùa, ở đó là gia đình tôi, ở đâu có những chiếc áo nâu, ở đó là bà con tôi. Và, hôm nay, tôi đang có mặt ở đây, tôi đang thực sự sống trong gia đình của mình".
Thầy và Ban Điều hành Chi hội Phật tử Praha 10
Gần bốn năm trước, khi Chi Hội Phật từ Praha 10 được hình thành thì cũng giây phút đó Niệm Phật đường Giác Minh được ra đời, nhưng Phật đường nằm ở trên gác. Cái thuận là vào chợ thì gặp chùa, nhưng cái chưa thuận là lên lầu hơi khó với một số vị có tuổi.
Niệm Phật đường Giác Minh cũ
Phật tử trong giờ thính pháp tại NPĐ Giác Minh cũ
Tôi nhớ có một lúc, có một nhóm Phật tử ở đây không đông lắm, cái cách mặc áo dài chưa quen thuộc. Có người chỉ xỏ 2 cái tay vô áo là xong, không cần cài, trông rất dễ thương. Có người mặc với tâm trạng rất ngại ngùng, ngại người này, người kia nhìn mình. Cũng có thể ngại vì thấy áo nâu nó xấu, cũng có thể ngại vì "eo ơi, cái bà này đi tu rồi à". Nhưng đến giờ phút này thì quí vị cứ mà xem, cụ bà bảy tám mươi tuổi cũng mặc, trẻ thơ bảy tuổi, mười tuổi cũng mặc, những cô thiếu nữ, những anh thanh niên cũng mặc, mặc rất tự tin, mặc rất đẹp và mặc với một tâm thế an lạc, thảnh thơi và nhẹ nhàng trong từng bước chân đi.
Chưa bao giờ tôi cảm nhận một niềm hạnh phúc trào dâng giữa trời Âu như lúc này, đầu chợ là áo nâu, cuối xóm là áo nâu. Những chiếc áo nâu thật thánh thiện, thật hiền lành, thật đẹp đẽ, cái đẹp đẽ của một Đạo Phật Việt Nam, một dáng vóc Việt Nam đang sống động trên đất Séc.
Chúng ta phải biết, áo nâu không chỉ là chiếc áo của người tu mà đó là chiếc áo của người Việt Nam, của văn hoá y phục Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Mặc trên mình chiếc áo nâu là quý vị đang truyền bá giáo pháp của đức Phật, đồng thời cũng mang sứ mệnh là phải giữ văn hóa Việt Nam cho thật bền, cho thật đẹp nơi quê mình, nơi xứ người.
Rồi đến những khúc hát cũng vậy, những ngày đầu trong những buổi giao lưu, ai cũng lậm cà lậm cậm, nói thì không biết nói gì cho hợp lẽ đạo, mà hát thì không biết hát gì cho dễ nghe. Thôi thì biết gì hát nấy, thậm chí "Năm anh em trên một chiếc xe tăng" cũng hát luôn, nghe xong ai cũng cười. Bây giờ thì đâu đâu cũng kinh Phật, đâu đâu cũng khúc hát Phật. Âm vang ấy không chỉ có ở nơi đây mà bây giờ gần như là toàn Séc rồi. Mỗi bước chân đi của tôi tràn ngập hạnh phúc. Có những lúc nghe khúc hát Phật mà tôi vui đến nỗi giọt nước mắt hạnh phúc đã rơi lúc nào không hay.
Ngôi chùa có mặt cho chúng ta nơi chốn đi về, cho chúng ta tới lui lễ bái, cho chúng ta gởi gắm những buồn vui. Những lúc vui xin hãy đến đây thỉnh một tiếng chuông cho tiếng cười vang xa. Những lúc buồn xin hãy cứ đến đây dâng nén hương thơm cho khói trầm bay lên, cho giọt buồn rơi xuống.
Chùa là một hình ảnh rất nên thơ. Tôi không biết làm thơ chứ nếu biết thì tôi đã có không biết bao nhiêu bài thơ cho những ngôi chùa trên đất Séc này rồi. Dù sao tôi cũng biết đọc thơ:
Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm
Chuông khuya, gió sớm, trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi!
Mai này tôi bỏ quê tôi
Bỏ chuông, bỏ gió chao ôi! bỏ chùa.
Ta biết bốn mùa: xuân hạ thu đông là tự nhiên, gió thoảng, mây bay, trăng sáng, trời trong cũng là tự nhiên. Thiếu những điều kiện tự nhiên này, con người sẽ thiếu đi điều kiện sống. Nguyễn Bính nhìn thấy chùa cũng là điều kiện tự nhiên tất yếu. Thiếu vắng ngôi chùa, thiếu tiếng chuông ngân thì chẳng khác nào đêm không trăng, ngày không nắng, xuân hạ thiếu hoa, thu đông vắng gió.
Chúng ta hãy hình dung văn hoá Việt Nam là văn hoá chùa chiền, tôn giáo Việt Nam là tôn giáo chùa chiền. Thiếu vắng chùa chiền thì văn hoá, tôn giáo của dân tộc ta cũng như sự sống không có xuân hạ thu đông, không có gió thoảng mây bay, không có trúc biếc mai vàng, thông xanh trăng bạc. Mái chùa, tiếng kinh đã gắn với văn học Việt Nam, văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam và nó trở thành yếu tố tất yếu trong đời sống tinh thần của chúng ta.
Những năm tháng sinh sống trên quê hương thứ hai này, chúng ta vì mưu cầu hạnh phúc, vì cần cái ăn cái mặc, có thể chúng ta khá giả về các phương tiện, các nhu yếu mưu sinh nhưng chúng ta còn đang rất nghèo, nghèo Giáo Pháp, nghèo văn hóa của dân tộc Việt Nam. Chính mái chùa, nhịp mõ, lời kinh đã giúp ta được sống lại với nền văn hóa của dân tộc, củng cố cho ta sức sống mầu nhiệm từ Giáo pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Lễ an vị Phật chùa Giác Minh mới
Mỗi chúng ta đều có một cái gốc rễ, đều có một cội nguồn. Hình ảnh đó ở quê nhà nó hiện rõ lắm. Nơi quê nhà có những Từ Đường, là nơi để tôn thờ tiên, tổ, dòng họ của chúng ta. Từ đường họ Trần, Từ Đường họ Nguyễn, Từ Đường họ Lê, họ Lý, họ Đinh, họ Đỗ . . . Mỗi họ tộc có một cái Từ Đường thờ tiên tổ. Nếu chúng ta lùi về quá khứ, khoảng vài nghìn năm trước thì chúng ta sẽ thấy Từ Đường của chúng ta là Đền Hùng. Đây là cội nguồn huyết thống của dân Việt chúng ta.
Rồi chúng ta có một cội nguồn nữa, đó là cội nguồn tâm linh. Vị tổ của cội nguồn tâm linh là Đức Phật Thích Ca. Ngài đã có mặt cách nay hơn 26 thế kỷ, tìm đạo tu hành, rồi chứng đạo. Sau đó đem giáo pháp nhiệm mầu dạy dỗ, truyền đạt cho ta.
Chùa là cội nguồn tâm linh tôn thờ Ngài. Nhưng, Ngài không chỉ ở trong ngôi chùa mà còn ở trong gia đình huyết thống chúng ta nữa, Ngài ở trong tâm mỗi người, Ngài ở trong Từ đường của chúng ta nữa. Cứ về Đền Hùng thì sẽ thấy.
Chùa Giác Minh đây là nơi thờ cội nguồn tâm linh mà cũng là nơi thờ cội nguồn huyết thống của chúng ta nữa. Dù có là Phật tử hay không, chúng ta vẫn có thể đến chùa. Những khi tết đến xuân về hãy đến dâng hương, những khi cha yếu mẹ già, những lúc chẳng may có người thân mất xin hãy cứ đến đây dâng hương cầu nguyện. Ngôi chùa không chỉ là nơi gửi gắm lúc sống, mà khi nhắm mắt xuôi tay mình cũng có thể đến gửi gắm tại đây.
Hội đồng giáo thọ hành thiền tại chùa Giác Minh cũ
Chùa là trung tâm đoàn kết của người Việt chúng ta và nói rộng hơn là cho tất cả những người kính tín Tam Bảo. Chúng ta sinh hoạt trong câu lạc bộ này, trong đội nhóm kia, tùy theo nghề nghiệp, tùy theo tuổi tác, tùy theo khả năng của mình mà sinh hoạt ở mỗi lĩnh vực khác nhau. Ông cụ không có lý do gì mà vào sinh hoạt trong Hội Phụ nữ, bà lão không thể vô cớ vào sinh hoạt trong Hội Thanh niên, cháu bé không thể vào tham gia Hội doanh nghiệp. Nhưng đến với ngôi chùa, cụ bà tám mươi tuổi cũng được, đứa bé ba tuổi cũng được, doanh nhân cũng được, chính khách cũng không sao. Ở nơi đây không có phân biết giai cấp sang, tiện, quí, hèn. Tất cả đều có thể đến, đây là ngôi nhà chung, "Mỗi người mỗi nước mỗi non, bước vào cửa Phật như con một nhà". Là con một nhà thì chúng ta phải sống từ hình thức đến nội dung, từ tư duy đến hành xử phải thể hiện đúng tinh thần cùng chung con Đức Phật cùng một nhà Việt Nam.
Quí vị hãy nhìn vào Pháp hội đây để rõ thấy, có mặt tại đây không chỉ bà con An Đông mà khắp các vùng miền, từ Ostrava, Brno, Cheb, Ceské, Praha, kể cả từ Dresden - CHLB Đức cùng có mặt. Điều đó nó nói lên cái gì. Đó là sợ dây liên kết những người con Phật với nhau. Có thể chúng ta tổ chức một sự kiện gì đó, chúng ta mua vé cho các bạn về đây nhưng cũng chưa chắc đầy đủ như hôm nay. Còn ở đây, chúng ta chỉ với một thư mời thôi nhưng điều gì đã lôi cuốn chúng ta cùng nhau về đây, hàng trăm, hàng nghìn cây số cũng đổ về. Đó là tấm lòng của người con Phật, đó là niềm tin sâu sắc vào Tam Bảo. Cho nên chúng ta cố gắng vun bồi, gìn giữ cái vẻ đẹp cao quí này. Nếu chúng ta thuần túy kinh doanh, buôn bán, chúng ta chỉ biết bạn mình ngồi quầy bên kia, nhưng thông qua Hội Phật tử chúng ta còn biết bạn mình ở khắp Séc, bạn mình ở bên Ba Lan, bạn mình ở bên Đức, bạn mình ở Hungary và bạn mình ở nhiều nơi nữa. Tôi biết rất rõ những người mười năm, hai mươi năm không biết mặt nhau nhưng từ khi sinh hoạt trong Hội Phật tử lại trở thành những người bạn chí cốt. Nhờ chất keo Phật Pháp kết dính chúng ta đoàn kết hơn, thân ái hơn và đẹp đẽ hơn.
Ngôi chùa là hình ảnh của một nền văn hóa dân tộc Việt Nam, của một bản sắc tôn giáo Việt Nam, của một đạo Phật Việt Nam để cho chúng ta quy ngưỡng và đi về.
Chùa Giác Minh được ra đời, phải nói rằng nhờ sự đồng lòng, đồng sức của Phật tử mười phương nhưng tôi rất trân trọng đánh giá cao tấm lòng, sự nhiệt huyết và sự cống hiến của Ban Lãnh đạo TTTM An Đông. Cho đến đầu năm 2015, công trình mới được khởi sự, để hôm nay lạc thành, nhưng từ năm ngoái tôi với anh Lâm đã ngồi trò chuyện và đã có hướng này. Một vị Tổng Giám đốc không chỉ lo cho bà con ta về kinh doanh, buôn bán, về văn hoá, thể thao, tức là về đời sống vật chất mà con quan tâm luôn đời sống tinh thần và cao cả hơn đó là nếp sống tâm linh của người con Phật. Giá trị đạo đức tâm linh là cái trục của mọi sự bền vững, là nền tảng của mọi hạnh phúc, bình an. Dù đời sống kinh tế khá giả nhưng nếu cái trục tâm linh không vững, chúng ta vẫn khổ, chúng ta vẫn phiền và chúng ta vẫn ăn không ngon ngủ không yên. Nếu nếp sống tâm linh vững vàng, nhờ giáo Pháp và thực hành theo Giáo Pháp, chúng ta có thể có đươc cuộc sống hạnh phúc, bình an và thảnh thơi trong kiếp sống này. Dù đời sống kinh tế có những cung bậc thăng trầm, có những lúc này lúc khác nhưng chính giá trị tâm linh đã tạo sự bền vững miên viễn cho chúng ta có được nụ cười, có được sự bình an và có được nếp sống tốt đẹp, thánh thiện.
Tôi cũng muốn nhắn gửi thêm là chùa thì đã có rồi, còn sinh hoạt như thế nào cho đúng nghĩa một ngôi chùa là do Phật tử chúng ta. Hãy tôn kính Ba Ngôi quí và thực hành Năm nguyên tắc đạo đức của người Phật tử: Tôn trọng sinh mạng, tôn trọng sự sống; tôn trọng tài vật của người; tôn trọng hạnh phúc của mỗi gia đình; tôn trọng sự thật, sống với sự thật và tôn trọng trí tuệ và những giá trị thanh cao của một nền đạo lý giải thoát giác ngộ.
Đó là năm nguyên tắc đạo đức do Đức Phật dạy, ứng dụng năm nguyên tắc này để thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh và ý thanh tịnh. Đó là chúng ta đang gặp Phật, đang sống với Phật.
Kinh dạy:
“Thân, khẩu, ý thanh tịnh
Thị danh Phật xuất thế.
Thân, khẩu, ý bất tịnh
Thị danh Phật diệt độ”.
Thân làm việc tốt, miệng nói lời lành, ý tư duy trong sáng thì lúc bấy giờ Đức Phật có mặt trên đời; còn với thân, khẩu, ý không thanh tịnh, không trong sáng dù cho chúng ta sống trong chùa thì Phật cũng đã diệt độ rồi.
Mỗi chúng ta hãy nuôi lớn đức Phật trong lòng.