Ngọc quí trong những ngày đầu xuân
Chiều mùng 6 tết Đinh dậu, điện thoại rung lên, tôi nhấc máy Alo, bên kia là tiếng của một thanh niên, giọng Bắc, tỏ lòng rất thành khẩn: "Bạch Thầy, con pháp danh là . . ., đang tu tại Thiền viện . . ., tỉnh . . ., con đã phạm giới, xin thầy cho con được về Khánh An để phát lồ. Kính mong thầy tác pháp yết ma trị - giải tội". Tôi đồng ý miễn cưỡng và lắng nghe được giọng bên kia tỏ lời cám ơn thật tha thiết.
Tôi miễn cưỡng là vì nhớ lại câu chuyện tương tự đã xảy ra trước đây. Bốn năm trước, có một thầy quê ở Gia Lai, ra Bắc ở tại một ngôi chùa và dân làng đã mời thầy ấy về trụ trì. Được gần 2 năm, bất ngờ, thầy ấy gọi điện, xin tôi cho về Khánh An tá túc vì sợ dân làng làm lớn chuyện do phạm một trong bốn Ba la di tội. Tôi không vui với sự tình và miễn cưỡng chấp nhận, chỉ vì cuộc sống của người kia đã ... hết lối.
Chiều mùng 8 tết, đang ở trong thất thì có một vị Tăng trẻ, tuổi khoảng hăm mấy, y hậu trang nghiêm, bê một mâm lễ gồm trà Thái Nguyên và bột sắn đến thưa việc. Tôi không cho đãnh lễ, nhưng thầy ấy nói: "Kính mong Thượng tọa thương con, phải cho con lễ cho đúng luật. Con pháp danh . . ., là người gọi điện cho thầy từ hai hôm trước, con đã phạm một trong 13 tội Tăng tàn. Con bất phú tàng ngay sau đó và được sư phụ con dạy, phải vào Thượng tọa gấp để làm lễ tác pháp trị tội, hành Ma na đoả sau đó tác pháp giải tội. Kính mong Thượng tọa thương chúng con mà y pháp thực hiện cho con được thanh tịnh".
Tôi nói: "Tăng thân Khánh An có đủ túc số để tác pháp trị tội và hành 6 đêm Ma na đoả, còn pháp giải tội phải cần đến túc số 20 vị, ở đây không đủ".
Con tin tưởng - thầy ấy nói tiếp - Pháp Phật nhiệm mầu, Thượng tọa giúp con tác pháp trị tội và hành Ma na đoả trước rồi con tin ngôi Tăng sẽ hộ trì.
Cái khoảnh khắc ấy, tôi thật sự khởi lòng sám hối đến vị tăng trẻ đang quì trước mặt tôi. Tôi tâm niệm sám hối vì đã có chút ngộ nhận, đồng hoá thầy với 1 người từ 4 năm trước, đến đây với sự lẫn trốn trong bóng tối, còn vị tăng đang trước mặt tôi đây thì đang hướng về ánh mặt trời.
Cái khoảnh khắc đó, tôi thầm ngưỡng mộ Sư phụ của thầy kia, dù tôi chưa biết, chưa một lần gặp - đó là bậc mô phạm luôn lấy khuôn phép nhà thiền làm đầu.
Cái khoảnh khắc đó, tôi nhìn sâu vào đạo tâm của thầy ấy và thấy rằng, tuổi tuy nhỏ, hạ lạp chưa cao nhưng hạnh nguyện của thầy thì đáng cho tôi học - Cái hạnh nguyện dám nhìn vào sự thật lỗi lầm và thỉnh cầu đại tăng sám hối.
Cái khoảnh khắc đó, tôi thầm nghĩ, trong hàng tăng sĩ chúng tôi có bao nhiêu người như vị thầy đang quì trước mặt tôi, biết "trân trọng, tôn kính Ba la đề mộc xoa, như ám ngộ minh, bần nhơn đắc bảo . . ."
Cái khoảnh khắc đó, tôi nghĩ cho đến khi nào giới luật được tuyên dương thì cho đến khi đó Phật pháp vẫn còn hưng thịnh.
Trên đời có hai hạng người, một hạng không bao giờ gây lỗi lầm và hạng thứ hai là gây lỗi lầm mà biết ăn năn sám hối. Hạng người thứ nhất có lẽ chỉ có các bậc thánh. Hạng thứ hai thì theo tôi vẫn xứng đáng được ngồi trên toà cao để mọi người tôn kính. Người trí biết nhìn thấy lỗi mình và sửa sai. Kẻ ngu chỉ thấy lỗi người và luôn "hào phóng" với những lời lẽ trách móc, hơn thua. Tác tệ hơn, người gây lỗi lầm mà không nhận thấy còn ngoan cố, chấp thủ tư kiến là người nguy hiểm, đáng sợ hơn nhiều.
Thói đời, chúng ta thường trân quí các bậc "hoàn hảo", "sáng ngời" đến mức thần tượng. Chúng ta quá xem thường những vị có lỗi lầm cho dù vị ấy biết nhìn vào lỗi lầm tự thân, chấp nhận và điều chỉnh những lỗi lầm kia. Với tôi, người tốt, tôi học được nhiều điều nhưng người gây lỗi lầm cho tôi nhiều bài học hơn. Bài học của những người tốt ta thường chỉ lắng nghe, còn bài học của những người lỗi lầm sẽ giúp ta chiêm nghiệm. Có lẽ nhờ chiêm nghiệm mà ta có được nhận thức sâu sắc hơn để sống tốt hơn. Một con đường trải thảm và hoa, ta sung sướng bước trên nó nhưng sẽ dễ quên hơn con đường hầm hố, chông gai đã một lần làm ta vấp ngã, con đường đó khiến ta nhớ đời.
Hình ảnh một vị tăng trẻ từ một tỉnh lẻ phía Bắc, vượt nghìn trùng vào Nam trong những ngày năm mới (Thầy ấy nói thời điểm này vé máy bay rất hiếm, giá vé gấp đôi ngày thường) chỉ vì cần cầu giới luật để thanh tịnh tâm, khiến niềm vui trong tôi trào dâng đến xúc động. Thời buổi này vẫn còn có những vị tăng sống giữa phàm trần mà hành thánh hạnh. Tôi tin trong tăng đoàn vẫn còn nhiều vị như thế.
Tôi trầm ngâm nhớ về Đức Phật, cho đến trước khi thị tịch, Ngài di chúc lại cho các thánh đệ tử chỉ có 3 điều: vạn pháp vô thường; các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi, ta chỉ là vị thầy chỉ đường; và, hãy lấy giới luật làm thầy, dầu ta có ở đời thì cũng không ngoài những gì đã dạy các con trong mấy mươi năm qua.
Tại sao hội chúng thời Đức Phật gọi là Thánh chúng? Vì các thánh đệ tử vâng giữ thánh giới, hành thánh hạnh nên có được trái tim thánh thiện và khối óc thánh trí. Nơi nào, đoàn thể tăng là bản sao của giới luật thì đoàn thể ấy xứng đáng được gọi là Thánh chúng.
Đức Phật dạy, người giữ giới như giữ tròng con ngươi, mất giới thì chẳng khác người mù, không thấy đường đi; người giữ giới như kẻ nghèo bắt được vàng ngọc, để vàng ngọc vuột khỏi tầm tay thì mãi khốn đốn.
Thầy ấy vào Nam để cầu giáo giới, nhưng với tôi thì thầy ấy đã đã mang đến Tăng thân Khánh An ngọc quí trong những ngày đầu xuân.
Tôi thầm niệm ơn thầy.
Trí Chơn