Tu viện Khánh An

CẢM NIỆM VU LAN

“Con đang thở cho ba, con đang mỉm cười cho má”
Danh mục: 
Thơ - Văn

   Mỗi năm, cứ vào độ đầu mùa Thu, tháng Bảy âm lịch, cũng là thời điểm báo hiệu mùa Vu lan Hiếu hạnh trở về trong lòng người con Phật nói riêng, cũng như tất cả những người con nói chung.

   Cảm xúc bồi hồi, nhớ, thương, tiếc nuối, và đâu đó có niềm hân hoan pha lẫn hối hận, nước mắt chen với niềm vui, tùy vào mỗi người, mỗi hoàn cảnh. Nhưng có lẽ, tựu trung, chính là cảm xúc của tình thương, lòng hiếu, sự biết ơn dâng lên trong lòng mỗi người.

   Nỗi nhớ nhiều nhất, niềm thương lớn nhất đối với mỗi người con chính là thương cha, nhớ mẹ. Điều này cũng phù hợp với lời dạy sâu sắc của Đức Phật về Tứ trọng ân mà phàm là người, ai cũng mang nặng và cần ghi nhớ trong lòng. Đó chính là ân cha mẹ, ân Tam bảo - thầy tổ, ân quốc gia - dân tộc và ân vạn loại chúng sinh.

   Nhớ bốn ơn sâu này, con người ta sẽ sống tốt hơn, tử tế hơn với chính mình vì ý thức rõ, mình để là mình như hôm nay - được thân người, nghe được Phật pháp - là một điều may mắn quá lớn. Cố nhiên, nếu không có sự thọ nhận ân đầu, mượn vay từ tinh cha, huyết mẹ để được biểu hiện là người thì mọi thứ khác đều không thể. Nhưng đâu phải chỉ mượn vay một chút hạt giống ấy, chúng ta, mỗi người ngồi đây hôm nay còn phải hoài thai trong bụng mẹ đến chín tháng mười ngày, chất chồng nỗi đau, nỗi khổ, niềm lo của mẹ (và cả của cha):

“Mẹ sanh con cưu mang mười tháng,

Cực khổ dường gánh nặng trên vai,

Uống ăn chẳng đặng vì thai,

Cho nên thân thể hình hài kém suy.

 

Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết,

Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề,

Ví như thọc huyết trâu dê,

Nhứt sanh thập tử nhiều bề gian nan”.

   Đức Phật trong kinh Báo đáp công ơn cha mẹ đã diễn tả vậy. Bản kinh quen thuộc đến độ nhiều người đọc hằng năm, lâu năm đã thuộc lòng nhưng mỗi lần khởi tụng đều cảm thấy rưng rưng, thương cha, kính mẹ, không ngăn được dòng nước mắt của mình.

   Người xưa nói, “thức đêm mới biết đêm dài, nuôi con mới biết công ơn mẫu từ”. Với người con của Phật, ta đọc kinh, nghe giảng, cùng quán niệm thật sâu về sự sinh, sự tử, lẽ vô thường, lý duyên sinh… cũng có thể hiểu thấu được ơn cha mẹ, cùng những ơn lớn khác mà mình được thọ nhận trong cuộc đời để có thể ngồi xuống thật bình an, thở thật ý thức, mỉm cười thật an yên dành tặng cho ta cũng là cho đấng sinh thành.

   Thiền sư Thích Nhất Hạnh dạy rằng, ta và ba mẹ có trong nhau, con cái là sự tiếp nối của ba mẹ nên mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của mình đều có ảnh hưởng, tác động đến ba mẹ và ngược lại. Do vậy, nếu ba mẹ sống thiện lương sẽ có ảnh hưởng tích cực tới con, con cái biết tu tập, sửa mình hiền thiện, biết hướng thượng, cũng sẽ giúp được cho ba mẹ.

   Hình ảnh Ngài Mục Kiền Liên Tôn giả tu tập chứng đắc, biết vận dụng pháp Vu-lan-bồn, nhờ trợ lực của chư Tăng để cứu mẹ thoát khỏi địa ngục là bài học lớn, tấm gương hiếu hạnh tuyệt vời để những người con noi theo và xác quyết một điều: khi con cái (là ta) biết tu và tu tốt thì ba mẹ cũng nhận được giá trị của sự tu tập ấy của mình.

   “Con đang thở cho ba, con đang mỉm cười cho má”. Thiền ngữ của Sư ông Làng Mai trở thành “thần chú” cho sự thực tập hiếu hạnh không chỉ trong mùa Vu lan mà trong mỗi ngày. Vì Vu lan Hiếu hạnh không chỉ có một mùa mà phải mỗi ngày. Vì sự chế tác năng lượng chánh niệm từ hơi thở, nụ cười có ý thức cho mình và cho ba mẹ không chỉ đợi đến tháng Bảy mới thực tập mà phải là mỗi ngày, trong từng phút giây, với từng sát-na nhỏ nhiệm. Nhìn ở phương diện này ta sẽ thấy, báo hiếu không phải chỉ có khóc, thương, hối lỗi mà quan trọng hơn, giá trị hơn chính là sự trau mình, sửa ý-khẩu-thân để bản thân ta trở nên sáng đẹp giữa cuộc đời. Đức Phật dạy “Tâm Hiếu là tâm Phật, hạnh Hiếu là hạnh Phật” cũng chính trong ý nghĩa này. Nhờ có hiếu với ba mẹ mà những người con biết sống đạo, sống có chất liệu an vui, giải thoát, sống gần Phật hơn. Và chỉ khi nào ta biết thánh hóa đời sống của mình, hay ít nhất là biết sống với ý-khẩu-thân thanh tịnh, trở thành người hiền trong cuộc đời thì đồng thời ta cũng đang báo ơn sâu của ba của mẹ, rộng hơn là Tứ trọng ân mà Phật đã chỉ bày.

   Có thể, có lúc nào đó đọc tụng tôn kinh về ân đức cha mẹ, nghe thầy cô giảng về hiếu nghĩa trong đời, nhất là trong dịp Vu lan, phút giây làm lễ “Bông hồng cài áo”, ta sẽ rưng rưng, khó tả:


Mẹ!

Có nghĩa là duy nhất

Một bầu trời

Một mặt đất

Một vầng trăng

Mẹ không sống đủ trăm năm

Nhưng đã cho con dư dả nụ cười và tiếng hát

Chỉ có một lần mẹ không ngăn con khóc

Là khi mẹ không thể nào lau nước mắt cho con

Là khi mẹ không còn

Hoa hồng đỏ từ đây hoá trắng...

 

   Khi chợt nhớ về, chợt nghe những vần thơ lay động lòng mình, lòng người của Thanh Nguyên trong “Ngày xưa có mẹ” ta sẽ không ngăn được dòng lệ. Nhưng rồi thì sao? Ta có quay về với mình để sống tích cực hơn từ hơi thở, nụ cười chánh niệm? Ta có dành nhiều hơn những cuộc gọi điện cho ba cho mẹ khi đi xa. Nếu ở gần ta có về nhà sớm hơn, khước từ những cuộc vui bên ngoài để ăn bữa cơm trọn vẹn với ba mẹ. Và có nhìn kỹ mặt mẹ, mặt ba, hay chỉ nhìn thoáng qua, rồi vội vã lao đi, nhân danh công việc, kiếm tiền, giao tế để cho ba mẹ mình ngóng chờ từng cuộc gọi, từng bữa cơm? Ngay cả khi ngồi ăn chung cũng vội vã, tay và chén cơm mẹ nấu, tay lướt web, lo trả lời bình luận trên mạng xã hội mà không có mặt trọn vẹn cho đấng sinh thành?

   Và ta có cùng ba mẹ mình hướng đến đời sống chánh hạnh để cùng đi trên đường vui, tu tập đạo giác ngộ, giải thoát?

   Bài thơ của Thanh Nguyên có lẽ đã lấy nước mắt của nhiều người. “Chỉ có một lần mẹ không ngăn con khóc/ Là khi mẹ không thể nào lau nước mắt cho con/ Là khi mẹ không còn/ Hoa hồng đỏ từ đây hoá trắng...”. Không chỉ mẹ, ba cũng vậy, cũng là duy nhất, như duy nhất một mặt trời, một mặt đất, một vầng trăng. Ấy thế mà ta không nhận ra để trân quý, để sống với ba với mẹ trọn vẹn từng phút giây.

   Diễm phúc cho những ai còn cha còn mẹ. Bởi đâu đó trên đời có những người đã mồ côi, có những đứa trẻ khi hiện hữu đã vắng bóng song đường. Diễm phúc cho những ai được thân người và được nghe Phật pháp để có thể nhận diện phước đức lớn mình đang có mà quay về tựa nương Tam bảo, học cách sửa mình, báo hiếu mẹ cha từ chính sự tu (sửa) ấy.

Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng,

Màu trinh nguyên, màu mẹ đã qua đời

Tôi không khóc, khi áo cài hoa trắng

Vì trong hoa, tôi thấy mẹ tôi cười.

   Tác giả Tuệ Nguyên trong “Tình hoa trắng” đã nói hộ những người con biết tu hôm nay: dẫu màu hoa trên áo mình là đỏ, hồng hay trắng cũng đều là màu tri ân, màu nhắc nhớ hạnh Hiếu để tu hành, để thở cho ba, mỉm cười cho má.

*

   Xin được cúi mình tri ân đấng sinh thành trong hiện đời và cha mẹ quá vãng bảy đời. Kính nguyện tri ân Tam bảo - thầy tổ đã khai thị, sinh ra chúng con trong gia đình tâm linh mầu nhiệm để con biết sống trong bầu không khí của biết ơn, báo ơn đúng cách. Nguyện tri ân sâu của đất mẹ, trời cha, của tổ tiên dân tộc ngàn đời và vạn loại chúng sinh đã chở che, cho chúng con được bình yên, khỏe mạnh, an lành sống trong bầu sữa giáo pháp.

   Giờ phút này, chúng con nguyện có mặt cho nhau, trân quý đóa hoa cài trên ngực áo, để thấy mẹ thấy ba đang mỉm cười.

Áo tôi vàng em cài lên hoa trắng,

Giữa mùa trăng hiếu hạnh nhớ về nguồn.

Tôi không khóc khi áo cài hoa trắng

Vì mùa trăng, mùa mẹ bước lên ngôi.

 

Đời của mẹ đã hóa thành hoa trắng,

Hoa thơm tươi, hoa thanh bạch, mẹ ơi!

Tình của mẹ là tình bông hoa trắng,

Tình thiêng liêng lồng lộng giữa đất trời.     

 

Nam mô Tôn giả Mục Kiền Liên Đại hiếu, duyên khởi pháp Vu lan báo hiếu, tác đại chứng minh…


Lưu Đình Long