Tu viện Khánh An

8 | Thích Nhất Hạnh - Bậc Thiền Sư Huyền Thoại Của Thời Đại

Bài 8: NHỮNG NGƯỜI BẠN "THỜI SỰ"
Danh mục: 
Thơ - Văn

    Năm 1989, tôi vào học trường Cơ bản Phật học khóa đầu tiên (sau đổi là Trung cấp Phật học) ở Vĩnh Nghiêm. Những ngày đầu nhập học không ai quen ai nhưng dần dần rồi ai cũng có bạn. Bạn thì nhiều nhưng có những người vừa là bạn học và cũng vừa là bạn “thời sự” như thầy Nhật Từ, thầy Nguyên Tạng, thầy Thiện Hữu, thầy Giải Hiền… Chúng tôi thường trò chuyện với nhau bởi những câu chuyện nóng của Phật giáo. Trong số đó thầy Nguyên Tạng (đang trụ trì tu viện Quảng Đức, Australia) là người hiểu biết khá rõ về Phật giáo hải ngoại, nhất là về thiền sư Nhất Hạnh. Thỉnh thoảng thầy photo tặng tôi vài trang sách, trang báo viết về thiền sư, xem xong cả hai ngồi… bàn. Sau bốn năm Trung cấp Phật học chúng tôi thi lên Cao cấp Phật học - Vạn Hạnh, mấy anh em đều lọt vào. Lên học Vạn Hạnh có thêm một vài “bạn thời sự” nữa như thầy Thông Đạt, thầy Tâm Khanh, cô Huyền Tâm… nhưng những câu chuyện về Làng Mai thì sức hấp dẫn vẫn là thầy Nguyên Tạng. Sức khỏe thiền sư lúc này ra sao, tháng này ngài thuyết giảng ở nước nào thầy nắm khá kỹ. Một danh tăng thứ hai mà anh em thường trò chuyện là Đức Đạt Lai Lạt Ma 14. Lúc còn đi học, thầy Nguyên Tạng đã dịch khá nhiều sách của Ngài. Mỗi lần dịch xong thầy đều photo tặng. Có lần thầy tặng tôi hai tấm hình của thiền sư Nhất Hạnh và Đức Đạt Lai Lạt Ma 14. Tôi hỏi “vị nào số một”? Thầy chỉ vào tấm hình có vị thiền sư choàng áo đỏ, rồi nói: “Ông ngài này từng là quốc trưởng của một quốc gia, là thiền sư đã dạo khắp thế giới phương Tây với những bài thuyết giảng nổi tiếng, rất nhiều nguyên thủ quốc gia đã hội kiến ngài”. Tôi thì mỉm cười, cầm tấm ảnh có thiền sư áo nâu giơ lên rồi nói: “Vị này không là quốc trưởng nhưng sức ảnh hưởng trên diễn đàn thế giới cũng không nhỏ bởi học thuyết “Đạo Phật dấn thân”, những cánh cửa quyền lực ngài cũng vào ra nhẹ nhàng. Điều tôi ấn tượng là: Tư tưởng thiền của Thầy được chiết xuất từ gốc rễ của cả hai dòng thiền Therarada và Mahayana, nhưng được biểu hiện với một phong cách rất mới, có khả năng thích ứng cho người phương Tây. Nó trở thành pháp thiền đặc trưng mà người ta gọi là pháp môn Làng Mai. Điều ấn tượng thứ hai theo tôi là: Một ông thầy tu Việt Nam đã thiết lập một tăng thân với hàng trăm người theo xuất gia, mà hầu hết tu sĩ đệ tử Ngài đều đến từ các nước phương Tây. Ngay cả thời pháp Thầy giảng, hội chúng chiếm đa số vẫn là người Âu, Mỹ. Một tăng thân mà hầu hết đều… “mắt xanh mũi lõ” là chuyện hiếm. Tôi với thầy Nguyên Tạng thường trò chuyện với nhau và những câu chuyện “lời qua tiếng lại” như vậy cũng thường xuyên diễn ra. Nó không phải là hơn thua mà chỉ là góc nhìn của mỗi người. Rồi cả hai cùng cười.

 

Chụp với thầy Nguyên Tạng tại đại lễ Phật đản PL. 2550 - 2006 tại Tu viện Bảo Pháp, California, USA

Những ngày tháng là học tăng ở Vĩnh Nghiêm, tôi chơi thân với thầy Thanh Tiếp, một người trọng tuổi nhưng tính tình rất hài hước, trẻ trung. Hạ lạp thầy nhỏ hơn tôi nhưng tuổi đời thầy đáng bố tôi. Trước năm 1975, khi còn cư sĩ, thầy là người kề cận cố hòa thượng Thích Pháp Lan, một bậc tôn túc là thành viên trong Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo thời kỳ 1963. Vậy nên, phong trào tranh đấu bảo vệ Phật giáo dưới thời ông Ngô Đình Diệm thầy hiểu khá kỹ, nhất là hoạt động của thiền sư Nhất Hạnh những năm tháng ở quê nhà và cả khoảng thời gian thiền sư sang Mỹ kêu gọi hòa bình thầy cũng biết khá nhiều. Có lần thầy đưa ra nhận định về thiền sư khiến tôi giật mình:

• Ông Cụ ấy (thiền sư Nhất Hạnh) sống trong giáo hội nhưng giáo hội không bao mà sống trong chế độ thì chế độ cũng không dung, trước (1975) cũng thế mà bây giờ cũng thế, nhưng bước chân ra hải ngoại thì Cụ làm nên chuyện.

• Tại sao vậy thầy? - Tôi hỏi.

• Đây là nhân vật rất đặc biệt - thầy nói - tư tưởng của Cụ là tư tưởng cách tân. Tư tưởng mà đi trước thời đại thì thời đại phải đón nhận thế nào đây (?). Cụ không chịu trói buộc bởi bất cứ học thuyết nào, chủ thuyết nào thì làm gì chịu sự bao dung của ai; mà cũng chưa chắc người ta không chịu Cụ hay Cụ không chịu người ta”.

• Vậy là thiền sư đi một mình một lối à? - Tôi nói.

• Thầy nhìn đi, con đường Cụ đi là do chính Cụ khai lối chứ có chịu đi con đường đã mở đâu.

• Con đường ấy liệu có được khai thông và có người bước chân theo?

• Con đường tư tưởng phải được tính bằng thế hệ thầy ạ, chưa thể nói gì bây giờ được đâu. . .

 

Một lần khác thầy nói đùa: “Thiền sư Nhất Hạnh phải cảm ơn ông Nguyễn Văn Thiệu vì sự thành tựu của Thầy “Có sự đóng góp” của ông ta. Tôi trố mắt phản ứng: Thầy nói gì kỳ vậy, ông Thiệu không cho thiền sư về nước mà thầy bảo ông ấy đóng góp là sao? Thầy cười phá lên rồi nói: “Chính vì ông tổng thống kia không cho về nước nên ông thiền sư này mới làm nên chuyện ở hải ngoại. Chứ nếu ở Việt Nam thì chắc gì có một Nhất Hạnh như ngày hôm nay. Tôi không nói gì nhưng cũng gật đầu, cảm nhận có lẽ là vậy.

 

Những ngày tháng học ở Trường Cao cấp Vạn Hạnh, tôi có cơ hội tiếp xúc một nhân vật khá đặc biệt: Ông Bùi Giáng. Cứ năm ba ngày là ông đến Vạn Hạnh. Sự xuất hiện của ông hình như ai cũng thích thú. Chỉ cần thấy dáng ông ngoài sân trường thì hàng trăm con mắt đang trong lớp học hướng ra phía ông. Có lần, cả lớp đang học anh văn thuật ngữ Phật học của cô Trần Phương Lan, ông đi thẳng vào lớp học và… ghẹo cô khiến cô rất sợ, trong khi cả lớp thì… mỉm cười thích thú. Những năm 1964 - 65, ông dạy ở đại học Vạn hạnh và làm việc chung với thiền sư Nhất Hạnh ở nhà xuất bản Lá Bối. Chính vì vậy mà tôi luôn tìm cách nắm bắt cơ hội để được gặp ông. Một lần, nhìn thấy ông đang đứng phía trước thiền viện, phía bên trái, nơi được trang trí vườn Lâm Tỳ Ni, đang học, tôi xin phép đi ra ngoài rồi… trốn luôn cả tiết học chỉ để gặp ông. Tôi đến bên ông thăm hỏi rồi bắt chuyện về “thân tình” giữa ông và thiền sư khi làm việc chung ở nhà xuất bản Lá Bối. Câu hỏi của tôi dường như có gì đó khiến ông khó chịu. Tuy vậy ông vẫn trả lời với giọng Quảng khàn khàn: “Ông ấy (Nhất Hạnh) hả, rất nhân tài và cũng rất độc tài. Mà thôi đừng hỏi nữa nha, hỏi nữa là đổ bể tùm lum đó”. Nói xong, nhà thơ cười khà khà rồi đi một hơi không thèm quay lại.

 

Tốt nghiệp Cao cấp Phật học xong tôi được tuyển vào làm việc tại văn phòng Giáo hội thành phố. Chùa Ấn Quang, trụ sở của Giáo hội, mỗi ngày phải có mặt để lo về việc soạn thảo văn thư. Trụ trì chùa Ấn Quang là hòa thượng Nhật Quang, một bậc tôn túc mà tôi hầu như mỗi ngày được trò chuyện. Lúc bấy giờ, tôi hiếm nghe một bậc tôn túc nào nhắc đến thiền sư Nhất Hạnh. Nhưng với Hòa thượng, thiền sư là thần tượng. Vậy nên nhắc đến hai chữ Nhất Hạnh, tôi hình dung Hòa thượng có một sự phấn khích và thăng hoa đến kỳ lạ. Những quyển sách, những bài viết của thiền sư được đăng trên các báo Hòa thượng nhớ rất rõ. Thậm chí Hòa thượng còn nhớ không chỉ bút hiệu Nhất Hạnh mà mỗi bài báo khác nhau thiền sư đề bút hiệu là gì Hòa thượng nhớ vanh vách. Trong một lần xem văn bản hướng dẫn tổ chức đại lễ Phật đản của Giáo hội, đến mục hướng dẫn treo khẩu hiệu trên lễ đài Phật đản có câu: “Phục vụ chúng sinh là cúng dường chư Phật”, Hòa thượng nói: “Câu này là của thầy Nhất Hạnh”. Tôi nghe mà giật mình nhưng nào có dám hỏi “Hòa thượng đọc ở đâu mà nói vậy”.

 

Hòa thượng Lệ Trang một vị thầy mà tôi thân kính. Thỉnh thoảng tôi vẫn đến Định Thành thăm thầy. Mỗi lần như vậy được thầy dành cho đạo tình rất trân quý. Sau đại trai đàn chẩn tế năm 2007, thiền sư mời thầy sang dạy nghi lễ cho tăng thân Làng Mai suốt nhiều tháng. Thầy rất tôn kính thiền sư và dường như mỗi lần gặp nhau bên chén trà, không nhiều thì ít thầy cũng đều nhắc đến công hạnh của Sư ông Làng Mai. Thầy kể có lần thiền sư và thầy đi dạo trên một lối mòn bên Làng. Tay thiền sư nắm lấy tay thầy, những ngón tay của cả hai đan vào nhau. Bất chợt thiền sư đưa bàn tay lên cao, điều đó cũng có nghĩa là tay của thầy Lệ Trang cũng được nâng lên. Rồi thiền sư hỏi: “Đây là ấn gì”. Thầy hơi lúng túng chưa có câu trả lời thì thiền sư đáp luôn: “Đây là ấn Tình Huynh Đệ. Có gì mầu nhiệm hơn tình huynh đệ, có gì trân quý hơn tình huynh đệ, có gì đẹp đẽ hơn tình huynh đệ!”

Với Hoà thượng Lệ Trang, tôi không ngại ngùng khi nói rằng thầy là ông tổ của nghi lễ miền Nam hiện nay nhưng với “Cái ấn tình huynh đệ” mà thiền sư “truyền trao” đã khiến thầy không khỏi bất ngờ và ngạc nhiên đến thú vị.

Cách đây vài năm thi sĩ Trụ Vũ đến Khánh An thăm tôi. Mặc bộ đồ trắng, dáng người mảnh khảnh nhưng thi sĩ có cặp mắt rất sáng và tuệ rất minh. Khi hỏi về thiền sư Nhất Hạnh, ông nói ông và thiền sư thân nhau từ những thập niên 50 của thế kỷ trước. Nhắc đến thơ của Thầy ông nói “Nếu chỉ đem con mắt thơ để đọc sẽ không thể hiểu được thơ của thầy Nhất Hạnh mà phải có mắt đạo mới “thấy” được thơ của Thầy”.

Những tháng ngày đi học rồi bước lên con đường phụng sự, được tiếp xúc với những vị thầy, những người bạn, khi nhắc về thiền sư Nhất Hạnh hầu hết đều bày tỏ sự kính trọng, ngưỡng mộ. Cố nhiên, cũng có những vị mỉa mai “Tu hành gì mà lại có thiền ôm, đàn ca hát xướng rồi lại bảo thiền ca, tu hành gì mà tăng tục cứ chen lẫn vào nhau rồi bảo là thiền hành”. Tôi nghe cũng băn khoăn nhưng thời đó chưa có nhiều cơ hội để tiếp xúc tìm hiểu như bây giờ.

Mỗi người chỉ đứng ở một góc mà một góc thì khó có cái thấy trọn vẹn. Cũng thế, hướng về thiền sư, nếu không có con mắt Thiền thì làm sao thấy được Sư. Với tôi mỗi cái nhìn điều giúp tôi có được những bài học sâu sắc trong cuộc sống đa diện này (!)

Trí Chơn

(Bài 9: Có Những Cơ Duyên)