Tu viện Khánh An

7 | Thích Nhất Hạnh - Bậc Thiền Sư Huyền Thoại Của Thời Đại

Bài 7: Thầy Có Trong Tôi Bao Giờ
Danh mục: 
Thơ - Văn

Thuở làm tiểu, tôi thường thân cận với một người cô, cô Đệ. Một lần đang nấu cơm cô ngâm đoản thơ:

“Năm xưa tôi còn nhỏ

Mẹ tôi đã qua đời

Lần đầu tiên tôi hiểu

Thân phận trẻ mồ côi.

Quanh tôi ai cũng khóc

Im lặng tôi sầu thôi

Để dòng nước mắt chảy

Là bớt khổ đi rồi”. . .

Bất ngờ quá, bài thơ đã va mạnh vào trái tim người tu trẻ. Không kiềm được cảm xúc, tôi chạy thẳng ra sau chùa đứng khóc, cái khóc dường như bị nén bởi nỗi đau không ngờ nên không có tiếng, chỉ có một sự tê dại trùm lên khuôn mặt. Buổi nấu cơm chiều hôm ấy, tôi biết cô rất cần tôi phụ việc. Cô réo ơi réo hỡi nhưng tôi thì vẫn... “Để dòng nước mắt chảy, Là bớt khổ đi rồi”.

 Với tôi, mẹ cha vẫn còn đủ nhưng có lẽ rời nhà quá sớm để vào chùa nên tình mẫu tử không được nồng ấm như bao trẻ thơ. Một điệu nhỏ rất vô tư với sớm kệ chiều kinh, dẫu nắng hay mưa thì ngày ngày vẫn hồn nhiên với giỏ nhang trên vai dạo khắp hang cùng ngõ hẻm: “Ai mua nhang không”. Cái hình ảnh “Hôm qua em đến trường, mẹ dắt tay từng bước” với tôi chưa bao giờ được nếm trải. Có những lúc bị ho, sốt nằm cong mình như con tôm nơi góc chùa, (cố nhiên là không có phòng để ở rồi) nhưng cũng chưa từng có được cái cảm giác “… mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay trên trán nóng ta và than thở: "Khổ chưa, con tôi…” (Bông Hồng cài áo). Vậy nên, khi cái khoảnh khắc “Lần đầu tiên tôi hiểu, thân phận trẻ mồ côi” giáng xuống đã khiến tôi choáng váng tâm hồn, ngồi thu mình lại và thoáng nhận ra thân phận côi cút hoàng hôn. Quanh tôi không thiếu người thân nhưng có được chút tình huyết thống là thứ… xa xỉ, chỉ trong mơ. Có nhiều lúc tôi tự vấn: Tại sao mình không có được tình thương - cái thứ nuôi dưỡng tâm hồn mà lẽ ra một trẻ thơ ở đời cần có. Cái thứ mà thiền sư Nhất Hạnh nói rất rõ là: “Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn”. (BHCA). Một lần nào đó, con tim trẻ thơ tan nát đã quì dưới chân Phật thốt lên: “Tại sao con thế này!”

Tối gặp lại trong giờ kinh, cô Đệ hỏi: Chú ăn cơm chưa, lúc chiều đang nấu chú chạy đi đâu vậy? Thực sự lúc đó bụng đói cồn cào, nhưng cố tránh câu hỏi “Chú chạy đi đâu vậy?”. Tôi chỉ vờ cười giả lả . . . à à, lúc cô đọc thơ đó hả. Mà… thơ ai mà hay quá vậy? Thì thơ trong Bông hồng cài áo của thầy Nhất Hạnh đó - Cô nói. Bài thơ Mất mẹ (của Tâm Xuân) trong Bông hồng cài áo khiến tôi chơi vơi, hụt hẫng về sự trơ trọi tình cảm, nhưng hai chữ Nhất Hạnh đã chống đỡ, củng cố tâm bồ đề và tên Thầy đã bắt đầu khắc họa trong tôi.


Vu Lan năm đó, Gia đình Phật tử Minh Quang về chùa cắm trại. Các bạn trẻ quy tụ khá đông nào ca, nào hát, nào múa, nào kịch... rất vui. Còn tôi thì được người lớn dạy: “Đã tu rồi thì không được vui chơi, cắm trại, không được ca, hát…”. Làm tiểu thời đó khắc nghiệt lắm(!). Trong đêm mưa, tiểu tôi nằm cuộn mình trong chiếc chiếu cũ nơi góc chánh điện, vẳng bên tai khúc hát Bông hồng cài áo của đoàn áo lam. Câu nói của cô Đệ lại vọng về: “Thì thơ trong Bông hồng cài áo của thầy Nhất Hạnh đó”. Thêm một lần nữa tên Thầy nhuộm thẫm trái tim tôi.

Hồi đó, phòng thầy thủ tọa tổ đình Minh Quang nằm ở phía trước, tầng dưới của chánh điện chùa. Thỉnh thoảng, mấy chú có tuổi trong xóm thường qua uống trà với thầy như chú Mai Thọ, chú Xuân Sơn, chú Lai Chính, chú Đào… Buổi trò chuyện của mấy chú chủ yếu là nghe (lén) thông tin trên đài BBC rồi ngồi bàn luận. Mỗi khi đài có thông tin nói đến Phật giáo thì câu chuyện trở nên sôi động hơn. Có lần mấy chú hội luận về… ông thầy lưu vong Nhất Hạnh, tôi ngồi nghe say sưa đến tận khuya. Thế là, mỗi lần thấy mấy chú hàng xóm tụ lại thì tôi có mặt để … nấu nước pha trà. Cố nhiên câu chuyện nếu không có nhân vật mình để tâm thì nghe nó rất nhạt và tôi thường thoái thác với lý do… học bài.

Khoảng năm 1984 - 85, Bổn sư tôi có tạc một tôn tượng Bồ tát Quán  Thế Âm trên ngọn đồi nhỏ phía sau chùa tổ Minh Quang - An Khê. Cả chùa, lớn nhỏ đều kéo về dự lễ an vị tượng. Mấy huynh đệ chúng tôi đi trước một ngày nên có dịp ghé chơi chùa này, chùa nọ. Hết qua chùa Minh Hòa lại đến chùa Linh Tân và sau cùng là thăm và dùng cơm chiều chùa Quy Sơn - chùa do hòa thượng Như Qui trụ trì.

Qui Sơn, đúng như tên gọi, một ngôi chùa nằm sâu trong núi nhưng kinh sách thì rất nhiều. Trong lúc mọi người chiêm ngưỡng những tượng Phật, pháp cụ, pháp khí thì tôi chằm chằm vào những tủ kinh sách. Tôi không để ý đến tủ có những bản kinh tụng, chỉ lưu tâm tủ có sách nghiên cứu Phật học. Tôi nhìn lướt qua, mắt sáng lên hai chữ Nhất Hạnh. Lòng rộn rã với ước ao có được, tôi canh lúc mọi người đi dạo, liều lĩnh vào phòng Hoà thượng trụ trì thưa bạch (nhút nhát mà liều thật):

- Bạch ông, con thấy trong tủ của ông có mấy quyển sách Phật học ông cho con xin về để học ạ”. (Lúc đó còn chưa biết đến từ thỉnh kinh nữa).

- Quyển nào con? - Hòa thượng hỏi.

- Dạ…, Tôi ngập ngừng thưa - mấy quyển Nẻo Vào Thiền Học, Đạo Phật Ngày Nay… đó ạ.

• Ngài nhìn thẳng vào mặt tôi: sách… thầy Nhất Hạnh đó hả ?

• Dạ - Tôi mở miệng lí nhí.

- Ngài đưa mắt nhìn xung quanh rồi cũng… lí nhí: con đi ra ngoài chơi đi, để thầy tính.


Vì tâm lý mong chờ nên chân bước ra ngoài nhưng cứ lảng vảng trước sân, mắt thì cứ nhìn vào trong xem ngài có lấy sách cho mình không. Mấy phút sau, hòa thượng bước ra ngoắc tôi vào, không nói lời nào, ngài đưa cho tôi một túi ni lông đen và, tôi biết đó là gì rồi. Mừng đến run rẩy, miệng cũng không thưa thốt được lời nào, tôi chỉ đưa hai tay nhận rồi cúi đầu tạ ơn. Ờ, trạng huống sâu kín, lặng lẽ sao giống lúc Đại sư Hoằng Nhẫn truyền pháp cho Huệ Năng quá!

Thú thật là lúc bấy giờ có được những quyển sách này lòng rất hồi hộp, lo sợ. Chẳng may, nếu mấy thầy lớn thấy sẽ điều tra rồi… tịch thu, thời đó cái “quyền người lớn” to lắm; rồi nghĩ xa nghĩ gần, không loại trừ các chú đồng lứa lén lấy thì thật là khổ. Vậy nên tôi giữ gìn cẩn mật. Tối về lại Minh Hòa, canh lúc mọi người đi ngủ, tôi mở ra xem, dưới ngọn đèn  dầu lờ mờ trên bàn Phật, đó là Nẻo Vào Thiền Học, Nẻo Về Của Ý, Nói Với Tuổi Hai Mươi, Đạo Phật Ngày Nay, Đạo Phật Hiện Đại Hoá, Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hằng Ngày (Thầy viết chung với HT. Huyền Quang) và mấy quyển lẻ Phật Học Phổ Thông (không đủ bộ).

Tôi tới giờ vẫn chưa hiểu tại sao được hòa thượng Như Qui thương, quý đến thế. Có phải ngài vì mầm non của đạo pháp hay thấy ông tăng trẻ ham tu hiếu học mà trao cho những tác phẩm giá trị như vàng (?). Thời buổi này sách quý như vàng thật đó. Tập vở học trò mua về còn thẫm màu lá úa, có những trang còn phải gỡ những sợi bã mía ra mới viết được thì làm gì có chuyện in sách văn hoá, tôn giáo. Đó là chưa nói những quyển sách mang tên Nhất Hạnh đều thuộc hàng cấm. Những quyển này tôi mang theo vào Sài Gòn cho đến ngày hôm nay.

Ký ức đầu đời của tôi về Thầy chỉ là những vần thơ, những khúc hát, những câu chuyện thời luận của người lớn, rồi dần dần đọc được những tác phẩm của Thầy. Hình ảnh Thầy có mặt trong tôi, lưu dấu trong tôi không hời hợt như cơn gió thoảng, mây bay mà là thấm đẫm hồn tôi như cơn mưa đầu hạ. Thấm chất thi ca, thấm câu văn pháp và thấm cả pháp môn hành trì.

Trí Chơn

(Bài 8: Những người bạn "thời sự")