Tu viện Khánh An

3 | Thích Nhất Hạnh - Bậc Thiền Sư Huyền Thoại Của Thời Đại

Bài 3: CHẤT LIỆU GÌ ĐÃ TẠO NÊN TƯỢNG ĐÀI NHẤT HẠNH TUYỆT TÁC THIÊN THU
Danh mục: 
Thơ - Văn


Tượng đài ở đây không phải là tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” được dựng lên ở Fox Square Park, Oakland, California mà Thầy có tên trong số 25 người nổi tiếng tranh đấu cho hòa bình, tự do và nhân bản trên thế giới. Tượng đài được xây dựng trong lòng người mới đi vào lịch sử, mới là tượng đài miên viễn vượt thời gian.

 

Trong nhiều pháp thoại nói về thuở xuất gia, Thầy có nhắc đến tuổi thơ khi bắt gặp hình ảnh đức Phật trên bìa tạp chí Đuốc Tuệ. Ấn tượng để lại trong Thầy lúc bấy giờ không phải là Đức Phật ngồi trên tòa sen, đặt trên bàn thờ với hương khói nghi ngút, với người người lũ lượt lễ lạy mà là hình ảnh Đức Phật ngồi an nhiên trên bãi cỏ với nụ cười từ bi trông rất bình an và tĩnh lặng. Chính cái hình ảnh về một đức Phật hài hoà với thiên nhiên, gần gũi với con người đã được “cài đặt” trong tâm ban đầu của chú bé Đình Lang. Nó được xem như là sự dẫn dắt đầu đời, định hướng tư duy, đưa chú đến một cái thấy về tuệ giác của một đạo Phật nhân bản. Khác với hầu hết những người tu khác là mang trong mình về một đức Phật tôn giáo.

 

Mặt khác, có thể nói cái tâm ban đầu của Thầy có đủ chất liệu Hiểu và Thương cùng với khối óc minh triết chờ sẵn (Nguyễn Du gọi là “thông minh vốn sẵn”) nên khi chân dung “Đức Phật nhân bản” được đón vào thì tâm thức kia biến Thầy thành một Nhất Hạnh tuyệt tác thiên thu. Với con tim này và khối óc này nếu không phải là một thiền sư thì chắc chắn cũng là một vĩ nhân vượt tầm.

 

Có một tác nhân quan trọng giúp Thầy trở thành con người kỳ vĩ đó là thời cuộc. Cái thời cuộc nhiễu nhương của chiến tranh đã đẩy biết bao chàng trai vào ngõ cụt, không có lý tưởng, không có hướng đi. Nhưng thời cuộc cũng làm thức tỉnh những con tim lương tri, những khối óc mẫn thế ưu thời. Đạo Phật cũng nằm trong dòng chảy của thời cuộc và không tránh khỏi những biến động gập ghềnh. Trong dòng trôi ấy, một Trái Tim Mặt Trời đã mở ra Hướng Đi Của Đạo Bụt và Bàn Tay Cũng Là Hoa đã Thả Một Bè Lau để khai thông Nẻo Về Của Ý cho đời. Cũng chính cái thời cuộc ấy bắt Thầy phải đi giữa hai làn đạn, thậm chí nhiều làn đạn, và lối đi ấy buộc Thầy phải bước đi đến suốt cả đường đời.

 

Nhìn rộng hơn một chút, vào tiền bán thế kỷ 20, xã hội Việt Nam xuất hiện nhiều luồng ý thức mới cùng với phong trào cải cách văn hoá - văn học được rộ lên. Sài Gòn là vùng đất hội tụ bao tinh hoa kim cổ đông tây và Thầy đã sớm đặt chân đến miền đất này khi tuổi đời chỉ mới ngoài 20. Đây cũng là cơ duyên giúp Thầy tiếp cận, chuyển mình trước thời đại

Lúc bấy giờ, các phong trào quần chúng nổi lên như phong trào Duy Tân, phong trào Đông Du, phong trào cải cách xã hội, cách tân văn học, văn hoá của nhóm Tự lực văn đoàn (đây là nhóm văn đoàn cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại (1930 - 1945). Các phong trào này phản ánh khách quan hiện thực xã hội về đời sống chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo dục …

 

Trong bối cảnh đạo Phật Việt Nam suốt gần hai thế kỷ 18 và 19 có những lúc như đi vào hoàng hôn, tồn tại chăng là những bóng áo vàng chuyên lo việc cúng đám tụng niệm, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, an, siêu  cho đời.

 

Như một quy luật “cùng tắc biến”, một số nước Phật giáo trong khu vực, sau những tháng năm chỉ đứng bên lề xã hội, nay Đạo Phật bắt đầu gượng dậy, phong trào chấn hưng đạo pháp hồi sinh. Tại Việt Nam các tổ sư  Thanh Hanh, Tâm Tịnh, Phước Huệ, Khánh Hoà, Huệ Quang, Khánh Anh …. đã đón nhận làn gió chấn hưng từ Thái Hư đại sư - Trung Quốc nên cũng đứng ra thành lập các hội đoàn Phật giáo, khai giảng các trường Phật học và sáng lập các tờ báo để truyền bá chánh pháp. Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam lúc này được hoạt động với nhiều hình thái khác nhau nhưng tựu trung vẫn là thiết lập ba hoạt động mấu chốt: 1/ xây dựng và củng cố tổ chức (thành lập Giáo hội), 2/ phát triển giáo dục (mở trường Phật học) và 3/ định hướng tư tưởng (lập ra cơ quan ngôn luận, mở mang các tờ báo).

 


Thiền sư Nhất Hạnh chắc chắn chịu sự tác động tích cực từ các phong trào chấn hưng này. Tuy nhiên Thầy có hướng đi riêng mà lịch sử ghi nhận như một hiện tượng. Hướng đi của Thầy có vẻ như chú trọng hai lĩnh vực là giáo dục và phát triển văn hoá tư tưởng, Thầy không mặn mà lắm với việc xây dựng, củng cố tổ chức Giáo hội. Ngay trong hành động của thầy đã phản ánh về một mơ ước có được sự tự do toàn triệt như bướm lượn vườn hoa, như sao trời lấp lánh mà không muốn bị trói buộc trong tổ chức. Hàm ý đó được nêu trong Bướm Bay Vườn Cải Hoa Vàng:

 

“Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát,

Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình”.

 

Tâm huyết về con đường giáo dục và phát triển văn hoá tư tưởng của Thầy hiện rõ qua việc lập ra nhiều trường Phật học như: thành viên sáng lập Phật học đường Nam Việt, sáng lập Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn (tiền thân của Viện đại học Vạn Hạnh), thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, mở trường tư thục Tuệ Quang ( Đà Lạt) và chủ bút nhiều tờ báo như tạp chí Phật giáo Việt Nam, Hải Triều Âm,  NXB Lá Bối …

 

Trong xây dựng tổ chức Giáo hội không hề có bàn tay của vị đạo sư khai mở dòng tu Tiếp Hiện, song Thầy vẫn có tiếng nói đóng góp nhưng không được lắng nghe, thậm chí ý kiến của thầy được cho là không phù hợp. Cụ thể là Tổng hội Phật giáo Việt Nam được ra đời 1951 với mục đích hợp nhất 6 tập đoàn Phật giáo trước đó ở ba miền thành một. Sau 5 năm thống nhất, Tổng hội chỉ đứng trên danh nghĩa còn thực chất 6 tập đoàn vẫn tồn tại. Thầy đã đề nghị nên làm mới Tổng hội bằng cách thống nhất Phật giáo toàn triệt chứ đừng thống nhất hình thức. Điều này đã bị  hầu hết lãnh đạo Tổng hội là các bậc trưởng lão phản ứng mạnh; cũng dễ hiểu, làm sao có thể lắng nghe góp ý làm mới Đạo Phật, Hiện Đại Hoá Đạo Phật từ một vị tăng tuổi chỉ 30. Cái tư tưởng làm mới bức phá đến nổi đụng chạm đến cả các giá trị truyền thống khiến nhiều bật tôn túc bắt đầu thận trọng, e dè đến hướng đi của Thầy. Thầy góp ý thẳng thắn trên báo Phật giáo Việt Nam do Thầy làm chủ bút, không lâu sau đó tờ báo này bị đóng cửa.

 

Với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có vẻ như Thầy cũng chỉ … “gá” cho vui. Nhìn rõ ta sẽ thấy, tháng 01/1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, nghĩa là thầy có mặt ngay thời điểm khai sinh Giáo hội sau 3 năm du học ở Hoà Kỳ về nhưng thầy đã không tham gia như một vai trò nòng cốt mà chỉ hoạt động trong phạm vi giáo dục (giảng dạy tại Viện cao đẳng Phật học Sài Gòn (chùa Pháp Hội) và làm báo tại tạp chí Hải Triều Âm, nhà xuất bản Lá Bối … Sau đó một thời gian,  Thầy đứng ra thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội rồi mở dòng tu Tiếp Hiện và chuyên tâm chăm sóc 2 “đứa con” này.

 

Thời điểm này chiến tranh hai miền ngày càng leo thang, nhiệt huyết Lạc Hồng đã thôi thúc trái tim từ bi khiến Thầy không thể ngồi yên trong mưa bom bão đạn. Thế là (1966) Hoa Sen Trong Biển Lửa đã xuất hiện trên diễn đàn thế giới. Sen Nở Trời Phương Ngoại để nói lên tiếng nói phản chiến, để rồi gần 40 năm biền biệt (9 năm dưới thời Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam) và tròn 30 năm sau ngày thống nhất) mây trắng mới trở lại đường xưa.

 

Có một dấu móc đã định hình nên phong thái một thiền sư lỗi lạc đó chính là khai sinh Làng Mai Pháp quốc (trước đó gọi là Làng Hồng).

 

Sau những năm tháng hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, chú trọng nhiều đến vai trò của cư sĩ qua việc thành lập dòng tu Tiếp Hiện, năm 1982 Thầy thành lập Làng Mai. Kể từ đây, vai trò của một pháp sư, một thiền sư chuyên nhất trở nên rõ nét hơn. Thầy bắt đầu kiến lập đạo tràng, tế độ người tu. Sáu năm sau, 1988, Thầy chính thức tiếp nhận giới xuất gia và củng cố, xây dựng tăng thân xuất sĩ, dần dần với một đoàn thể bốn chúng được hình thành và phát triển rộng khắp, vững mạnh trải khắp Á, Âu cho đến ngày viên tịch.

 

Đến hôm nay, di sản Thầy để lại đời không phải là một Nhất Hạnh lấp lánh với những danh xưng triết gia, thi sĩ, văn sĩ … một thời; cái Thầy để lại là hình ảnh vị thiền sư với tăng thân áo nâu hàng nghìn người đến từ nhiều chục quốc gia trên thế giới thực tập pháp môn chánh niệm.

 

Cho đến khi nào đoàn tăng thân áo nâu kia với phạm hạnh tỏa sáng, với đường hướng thực tập chánh niệm tinh chuyên thì pháp thân của bậc đạo sư vẫn hiện hữu và sáng đẹp trong lòng đời.

 

Trí Chơn

 

(Bài 4: Thiền sư có làm chính trị? Đạo Phật nhập thế Làng Mai liệu có bị thế nhập?)