Mỉm Cười Một Kiếp Với Nhân Gian
Lòng khắc khoải chưa
nguôi thì lại nhận thêm một cuộc gọi đến từ Qarta. Tôi vừa mở máy alô thì đầu
dây bên kia: “Thầy ơi con là An Ngọc đây”. Sau đó là tiếng khóc nức nở không
nói được câu gì. Trong một khoảnh khắc tôi đã nhận ra tiếng nói ấy và mở lời:
“Thầy biết rồi, chị An Ngọc, phu nhân cựu đại sứ Nguyễn Hoằng phải không?”.
Vâng ạ ... Thầy ơi
.... Hoằng nhà con chắc không qua khỏi. Anh ấy bị bệnh MT thầy ơi. . .
Nói xong chị chuyển máy cho anh nói chuyện.
Qua điện thoại, tiếng
nói yếu ớt của anh, tôi gần như không nghe được một chữ gì ngoài tiếng
rên xiết. Chị thông ngôn lại, anh nói: “Thầy TC ở mãi trong trái tim tôi. Thầy
TC ở mãi trong trái tim tôi... ”. Nghe xong, đôi mắt tôi nhòa đi. Không ức chế,
tôi cứ để những giọt nước mắt làm theo việc của nó. Rồi bình tĩnh lại, tôi
hướng dẫn anh quán niệm hơi thở theo phương pháp Phật dạy để giúp thân tuy đau
nhưng tâm vẫn lành lặng, yên bình, tịch nhiên và anh đã làm
theo.
Mười lăm năm hành đạo
ở Châu Âu, qua các đời đại sứ, Nguyễn Hoằng là cái tên tôi gắn bó sâu đậm nhất,
nghĩa tình nhất. Tôi xem anh như một ông anh, một người bạn tâm giao cốt
nhục.
Năm 2007, tôi dành trọn một năm cho việc hoằng pháp ở Cộng hòa Séc và sau đó lập Hội Phật tử tại đây. Năm 2008, tôi đặt chân đến Ba Lan và Hungary để tiếp tục hành đạo. Sau đó, đạo tình bén duyên, sự gắn bó giữa tôi trở nên thân thiết hơn với cộng đồng, với Hội người Việt Nam đặc biệt là đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan mà anh Hoằng làm đại sứ.
Đại sứ Nguyễn Hoằng tặng hoa năm 2010
Đại sứ Nguyễn Hoằng tặng quà năm 2011
Chị An Ngọc - Nguyễn Thị Châu Anh, Phu nhân cựu đại sứ Nguyễn Hoằng
Tôi còn nhớ rất rõ một
buổi chiều đầu năm 2010, sau Lễ Thượng nguyên - Lễ cầu an cho bà con cộng
đồng - là lễ quy y Tam Bảo. Trước khi vào lễ tôi thân mật tiếp đại
sứ Nguyễn Hoằng và phu nhân - chị Nguyễn Thị Châu Anh.
Trong lúc trò chuyện chị thưa việc:
- Bạch thầy một phu nhân đại sứ như con làm công tác ngoại giao thì không thể không nâng cốc rượu. Vậy thì làm sao con có thể Quy y Tam Bảo và giữ trọn vẹn Năm nguyên tắc đạo đức?
- Thưa
chị - tôi nói- mỗi lần chị nâng cốc rượu lên, đây là một nghi lễ ngoại
giao hay chị đang hưởng thụ? Một hớp rượu của chị đem lại lợi ích cho hai
quốc gia, hay chí ít cũng đem lại lợi ích cho cộng đồng người Việt tại Ba
Lan hay chị đang ăn chơi? Rõ ràng cốc rượu này là cái lễ, mang tầm quốc
gia và quốc tế; nó lợi ích lớn lắm chứ.
Nói chưa hết câu thì tôi nhìn thấy chị mỉm cười, còn anh Hoằng
thì khuôn mặt đầy rạng rỡ. Thế là Anh vỗ mạnh tay vào đầu gối chị rồi thốt lên:
“Em đảnh lễ thầy, xin quy y ngay cho anh”. Tôi nói đùa “Em qui y cho em chứ sao
em qui y cho anh được”. Rồi tất cả cùng cười.
Tôi nhớ trong dịp đó hàng loạt cán bộ, nhân viên Sứ quán đều
phát tâm quay về nương tựa Ba ngôi cao quý. Và, chị Châu Anh có
pháp danh An Ngọc từ đó.
Thế rồi mỗi năm 2 - 3 lần sang Châu Âu, Ba Lan là một trong những
điểm đến không thể thiếu trong lịch trình của tôi. Có những lúc lịch hoằng pháp
khá dày, tôi không đến được Sứ quán chào hỏi thì thế nào anh cũng lên chùa để
anh em được gặp nhau. Thế rồi tôi ở quê nhà, cứ 1 vài tháng anh lại gọi điện về
thăm. Nghĩa tình cứ như vậy ngày một gắn kết bền lâu.
Nhớ lại những ngày đầu hành đạo tại Ba Lan, khi chùa Thiên Việt
còn nằm trên mảnh đất thuê, tình đồng bào, nghĩa đạo pháp thật đẹp. Nhưng kể từ
chùa Thiên Việt không còn tồn tại do vì phải trả đất lại cho chủ thì phong trào
mua đất làm chùa lại vô cùng cam go. Cái cam go không phải vì tài chính mà vì
sự bất hoà từ một bộ phận ban kiến thiết xây dựng. Không phải thiếu sự ủng hộ
từ quần chúng mà chính là người trong mà toàn chỉ bàn ra, đất phải mua ở chỗ
này, chùa phải xây theo kiểu kia. Không phải các nhà chức trách thiếu
quan tâm mà chỉ vì tâm đạo của một số người còn mong manh quá. Vậy nên nẻo đạo
gập ghềnh. Để rồi nỗi đau buồn nhất vẫn là ... người hướng đạo và những
người đứng đầu.
Trong một pháp thoại tôi đã không cầm được nước mắt. Anh ngồi
bên dưới khép đôi mắt lại, chị đưa chiếc khăn, anh cầm lên, lau đôi má
rồi cho khăn vào túi.
Xong pháp thoại, giữa lúc đông người anh bước lên ôm tôi thật
chặt rồi nói “Chí đạo kiên cường nhé thầy”. Tôi mỉm cười: “Anh phải ủng hộ
nhé”. Anh nói tiếp: “Đó là trách nhiệm của chúng ta”. Tôi thầm nghĩ, thật khó
có một Đại sứ mà nhiệt huyết, nhiệt tâm dành cho cộng đồng lớn đến
thế.
Rồi một buổi sáng tôi nhận được điện thoại từ anh: Thầy ạ, tôi đã mãn nhiệm kỳ đại sứ tại Ba Lan rồi, giờ chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới tại Qarta. Thầy muốn đi Qarta bất cứ lúc nào cứ gọi điện nhé. Thế rồi anh em thưa dần những cuộc hội ngộ.
Cuối năm 2018, nhân kỷ niệm 100 năm ngày quốc khánh cộng hòa Ba Lan, được tổ chức tại Cung điện Văn hóa và Khoa học (Palac Kultury i Nauki) Ba Lan, tôi cũng được thư mời tham dự sự kiện này. Điều thú vị là được gặp lại các quan chức chính phủ Cộng hoà Ba Lan đặc biệt là các cựu đại sứ Việt Nam qua các thời kỳ. Số lượng khách khá đông, nhất là nhiều đoàn khách quốc tế. Các vị cán bộ đại sứ quán Việt Nam rất chu đáo, đứng ở trước cửa đón chào, trong khi chị An Ngọc thì đứng nói chuyện với một số vị khách. Thấy tôi, chị bước nhanh ra chào rồi đưa vào trong. Sau đó anh bước tới bắt tay rồi ôm lấy tôi, một niềm xúc động trào dâng mà 5 - 6 năm mới gặp lại.
Kỉ niệm năm 2018
Mặc dù cuộc trò chuyện rất vui, vẫn không giấu được nỗi buồn
hằng trên khuôn mặt của anh chị.
Sau buổi cơm tối, trước khi khai mạc lễ chị cầm tay tôi kéo ra
hành lang rồi tâm sự: Vợ chồng con đã nghỉ hưu nhiệm kỳ đại sứ tại Qarta rồi
thầy ạ. Tuy nhiên, do bệnh tình của nhà con quá nặng, nên phải tiếp tục ở lại
Doha điều trị. Toàn bộ kinh phí trị bệnh đều do hoàng gia Qarta đài thọ. Tôi
vui vì công trạng của anh quá lớn góp phần giúp quốc gia hợp tác, phát triển;
nhưng buồn vì căn bệnh của anh quá nặng. Trông anh xuống sắc, phong thái không
còn như xưa.
Năm tháng trôi qua, Covid19 đã làm thay đổi mọi trật tự của thế
giới. Lịch trình hành đạo Châu Âu của tôi gần như xếp vào quá khứ.
Trước đây thi thoảng bà con cũng gọi điện về tâm sự với những
buồn vui trong việc tu tập, hành đạo, việc kinh doanh, buôn bán, mưu sinh
... Nhưng mấy tháng nay, những tin nhắn, những cuộc gọi về hầu như là
không có gì ngoài chủ đề bệnh và chết.
Vẫn biết chết là cặp phạm trù cùng có mặt hiển nhiên với sinh.
Ra đi là quy luật tất yếu ngầm báo từ khi ta đến. Thế nhưng trò chơi tử sinh
này quá khắc nghiệt với con người. Chỉ duy nhất một lần rồi vĩnh viễn ra đi mà
ta hoàn toàn không biết trò chơi tiếp theo là với những ai và ở đâu.
Những năm tháng gian khó để chung tay xây dựng ngôi chùa mang tên Nhân Hoà cho cộng đồng người Việt tại Ba Lan, những người kề vai sát cánh , chịu trăm cay ngàn đắng với tôi phải nói đến, thầy Đức Đạt, Phật tử Viên Đức - Hà Minh Hiển, anh Lê Thiết Hùng, anh Hoàng Mạnh Huê, anh Khánh Ngộ - Lê Văn Mừng, chị Diệu Lan - Nguyễn Thị Huệ, anh Tuấn ASG, anh Võ Văn Long, anh Khang - Khánh Thịnh, anh Hoà - Khánh Thuận, anh Mích và phu nhân chị An Phúc, anh Lương Quang Chỉnh, anh Nguyễn Công Diễn cùng biết bao Phật tử thầm lặng phụng sự hy sinh. Trong số đó, anh Nguyễn Hoằng - một nhà chức trách, một người bạn, một Phật tử tôn kính Tam Bảo, hết lòng vì quê hương, tổ quốc và cộng đồng xa quê- người mà tôi cho là đã có công đức không nhỏ để có được chùa Nhân Hoà hôm nay.
Giờ thì chùa Nhân Hoà đã vững chải giữa lòng Warsaw , trở
thành biểu tượng của văn hóa Việt, đạo Phật Việt vùng xứ tuyết trời
Âu, nhưng người bạn thân của tôi thì đã chuyển công tác, buồn hơn nữa là khả
năng ngắm ngôi chùa Nhân Hoà thêm một lần nữa đã không còn.
Anh Hoằng! Có lẽ lúc này là khoảnh khắc mầu nhiệm nhất để chúng
ta cảm nghiệm hai chữ vô thường ngay nơi tấm thân mình.
Kính chúc anh:
Thân tại vô thường tâm tại an
Dòng chảy như nhiên chớ bàng hoàng
Sinh tử lẽ đời không vướng bận
Mỉm cười một kiếp với nhân gian.
Trí Chơn