Tu viện Khánh An

MÁI CHÙA – NGUỒN SỐNG CỦA DÂN TỘC

Đạo Phật, qua mấy nghìn năm truyền thừa và phát triển bởi các thầy Tổ, giờ đây đã nhẹ nhàng, êm ả đi sâu vào đời sống của dân tộc Việt Nam và trở thành một nguồn sống phong phú, sinh động trong mọi sinh hoạt của người dân mà từ lâu sử sách đã ghi nhận lại như một nét son chói lọi trong suốt cuộc hành trình của Tổ quốc.
Danh mục: 
Thơ - Văn

Phật giáo đã cùng dân tộc Việt Nam trải qua bao thăng trầm của đất nước, từ thời khai sơ dựng nước đến thời đại hòa bình hôm nay, Đạo Phật vẫn luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong tim của người con đất Việt, vậy nên có ai đó nói rằng, Đạo Phật là đạo của dân tộc thì chúng ta cũng không quá khó hiểu. Tinh thần Phật giáo đã trở thành yếu tố văn hóa quan trọng. Vì thế, không còn ngạc nhiên khi nhìn thấy trong gia tài văn hóa Việt Nam từ lĩnh vực nghệ thuật, văn chương, âm nhạc, cho đến kiến trúc, điêu khắc… đâu đâu cũng đều mang đậm những dấu ấn ảnh hưởng Đạo Phật hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Điều đó đã chứng minh tinh thần nhập thế của Đạo Phật với nền văn hóa truyền thống tổ tiên như câu nói: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”.

Ngoài những hệ thống Kinh điển với giáo lý tuyệt vời phù hợp mọi căn cơ của từng người, ta còn có thể tìm thấy trong Đạo Phật những biểu tượng văn hóa đặc trưng khác. Trong đó, có thể kể đến hình ảnh mái chùa rêu phong cổ kính với hình vòm mái uốn cong lên bầu trời cùng với âm thanh ngân nga, vang vọng của tiếng chuông không chỉ là thực tại sinh động có khả năng xoa dịu, làm lắng đọng, an ổn những tâm hồn bơ vơ lạc lõng mà nó còn là một biểu tượng nghệ thuật, khơi gợi vô vàn những cảm hứng sáng tác cho những thi ca yêu quê hương, đất nước.

“Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng,

Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung,

Mái chùa che chở hồn dân tộc,

Nếp sống muôn đời của tổ tông.” (Huyền Không)

Mái chùa trong lòng người Việt từ lâu đã trở nên thân thương, quen thuộc. Hình ảnh ấy đã đi vào câu hò, điệu lý, tục ngữ, ca dao... nhắn nhủ những người con tha phương nhớ về tiếng chuông vang vọng khi mỗi sớm mai thức giấc, nhớ về nơi được gọi là cội nguồn tâm linh của quê cha đất tổ. Mái chùa đã gợi lên tình yêu quê hương, yêu đất nước, bởi lẽ, nó không chỉ là “chùa chung” của cả dân làng mà nơi đó còn tượng trưng cho hồn dân tộc, gắn bó, hun đúc, tô bồi nếp sống của tổ tông thông qua kinh điển, tượng Phật và nếp sống phạm hạnh của chư Tăng.

Mái chùa và tiếng chuông là những hình ảnh và âm thanh từ lâu đã khắc ghi sâu đậm trong tâm khảm của người dân Việt Nam. Tiếng chuông tượng trưng cho sự tỉnh thức, là người bạn thủy chung của người nông dân ngày đêm lặn lội chân lấm tay bùn, dãi nắng dầm sương nơi nước ruộng đồng sâu, đêm về tiếng chuông đã nhẹ nhàng đánh thức dân làng trong những lúc ngủ say. Nó như một cột mốc thời gian giúp cho người dân sinh hoạt một cách nhịp nhàng và đều đặn:

“Tiếng chuông vượt núi len sông,

Vào làng thức tỉnh dân nông ra đồng”.

Hình ảnh mái chùa nghiêng nghiêng và tiếng chuông vang vọng nhẹ nhàng, siêu thoát lan xa tận đầu thôn cuối xóm đã hòa quyện cùng nhau trong mạch sống đầy hương vị ngọt ngào, nồng ấm và chất phác nơi làng quê:

“Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”.

Ai đã từng nghe Nguyễn Bính tâm sự trong những vần thơ rồi mới thấy cái tấm lòng mà ông dành cho mái chùa thân thương bao la rộng lớn biết nhường nào.

“Quê tôi có gió bốn mùa,

Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.

Chuông hôm gió sớm trăng rằm,

Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi”.

Qua lời bộc bạch, ta có thể thấy nơi ông sinh ra: gió có bốn mùa, trăng có giữa tháng,… nhưng điều đặc biệt không bao giờ thay đổi là ngôi chùa vẫn ở đó, vẫn hiện diện, vẫn có mặt quanh năm. Và cái sự hiện diện ấy là bất khả phân ly, luôn luôn thường trực, bao trùm lên bất kì nơi nào trong làng quê Việt Nam, thấm đẫm nền văn hóa mà ông cha ta từ bao đời nay đã gầy dựng.

Mai này tôi bỏ quê tôi

Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa!

Bỏ trăng, bỏ gió, bỏ cả quê hương để tha phương nơi chốn lạ quê người tìm niềm vui mới trong cái xã hội hiện đại có lẽ là điều đơn giản, thế nhưng, bỏ chùa là bỏ đi cái nếp sống bao đời của người dân Việt Nam đã khiến ông phải rùng mình hoảng sợ như đang chìm trong nỗi đau vô hạn mà thốt lên hai chữ: chao ôi. Có lẽ không có nỗi đau nào bằng việc phải bỏ lại quê hương, bỏ lại mái chùa xưa với tiếng chuông sớm tiếng mõ chiều đầm ấm thân thương mà bôn ba nơi đất khách quê người. Vì vậy, trên vạn nẻo đường đời, dù có phải trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, trải qua bao nhiêu cát bụi của kiếp sống nhân sinh thì mái chùa thiêng liêng vẫn luôn sống mãi trong tim của người con đất Việt.

Ðến chùa, được quỳ dưới Phật đài, chiêm ngưỡng tôn nhan đức Phật, nghe lời tụng kinh ngọt ngào du dương quyện trong khói trầm hương khiến lòng người lắng dịu bao phiền não lo toan. Mái chùa bình yên còn đó thì tiếng chuông chùa vẫn còn mãi ngân vang để thức tỉnh nhân sinh. Tiếng chuông còn ngân lên thì truyền thống đạo lý của Tổ tiên còn có mặt, phẩm tính cao đẹp của dân tộc lại càng được phát huy. Hình ảnh ấy, âm thanh ấy là nơi hội tụ của cởi mở và bao dung, làm vơi đi những niềm đau, nỗi khổ của con người, tô bồi thêm cho một nếp sống thuần lương, chuyển hóa những trầm luân, trở thành quê hương thanh bình an lạc, để cho mái chùa và tiếng chuông vẫn mãi là nơi nuôi dưỡng hồn thơ dân tộc. Đâu đó vẫn còn vang vọng những lời hát trầm bổng đầy ấm áp nhưng cũng thấm đẫm triết lý nhân sinh của một vị thầy:

“Vào cổng chùa nghe tiếng chuông nhắc mình buông

Lên chánh điện nghe tiếng mõ nhắc mình bỏ

Nghe tiếng chuông nhắc mình buông

Nghe tiếng mõ nhắc mình bỏ

Chuông mõ, bỏ buông…”

Lệ Ánh