Tu viện Khánh An

Hiến Tặng Năng Lượng Không Sợ Hãi

Hằng năm vào các ngày 19/02, 19/06 và 19/09 âm lịch, những người con Phật đều thành tâm kính lễ ngày vía Quán Thế Âm Bồ Tát; được giao cảm với Ngài. Cuộc sống khi gặp những chướng duyên, người ta hay hướng về Bồ tát với tâm niệm “Hữu cầu tất ứng” - sự linh ứng nhiệm mầu, cứu khổ ban vui cho những ai có tín tâm Phật Pháp. Vì thế Ngài luôn được mọi người tôn xưng là Mẹ hiền Quán Thế Âm Bồ Tát.
Danh mục: 
Thơ - Văn

Danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát có một ý nghĩa cao thâm; Quán là quan sát, xem xét; Thế là thế gian; Âm là âm thanh kêu cứu chúng sinh đang chịu khổ đau; Bồ Tát là độ thoát vượt qua mọi khổ đau. Như vậy, Quan Thế Âm Bồ Tát là người luôn quan sát, lắng nghe những tiếng lòng bi ai từ chúng sinh; đem lòng từ bi, vị tha để cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ đau, không còn sợ hãi. Ngài chính là vị Bồ tát của tình yêu thương (Bi) và sự hiểu biết (Trí). Tuệ giác sáng soi của Ngài là nhìn thấy “năm uẩn” (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức,) đều “Không”. Nhờ an trụ trong tuệ giác duyên khởi, không chấp thủ nên Bồ tát vượt thoát mọi chướng ngại, không còn sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết-bàn (Bát nhã Tâm kinh).

Ngày nay khi Đạo Phật ngày càng đến gần với mọi người; giáo Pháp ngày càng thắm nhuần trong tư tưởng nhân sinh, thì những nghĩa cử “Sống tốt - Sống đẹp” mà hàng đệ tử Phật luôn tu tập và trau dồi trong cuộc sống ngày cũng nhiều hơn; đó là họ biết hiểu và thương, thực hành bố thí Ba La Mật (Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí). Tài thí và Pháp thí đều mang đến cho con người niềm an lạc và hạnh phúc, vững tin Chánh Pháp. Còn “Vô úy thí” là năng lực vô úy của Bồ tát Quán Thế Ậm luôn được chú trọng trong giáo Pháp. Theo quan điểm của đạo Phật, vô minh tạo ra tham muốn và từ đó tham muốn tạo ra sợ hãi, mà sự vô minh bắt đầu từ bản ngã - “Cái Tôi”. Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, tất cả những nỗi sợ hãi, thất vọng, vấp ngã và tai nạn đều do ngu si mà sinh khởi. Tất cả những điều ấy không sinh khởi nơi người có trí tuệ, cũng như ngọn lửa bùng cháy từ bụi lau, bụi cỏ sẽ làm cháy cả lầu đài, cung điện… Cũng vậy, ngọn lửa ngu si bùng lên làm cho những nổi sợ hãi, thất vọng, vấp ngã và tai nạn có mặt”(Kinh Đa Giới, Trung Bộ Kinh III). Đức Phật khuyên dạy mọi người hãy trở thành người hiền trí bằng cách quán chiếu để nhận thấy được bản thể của nhân sinh vũ trụ là “Không sinh-Không diệt”, qua đó dập tắt ngọn lửa Tham-Sân-Si, thành tựu trí tuệ và đoạn diệt khổ đau. Lời Phật dạy: “Ai tâm không an trú, không biết chân diệu Pháp, Tịnh tín bị rung động, Trí tuệ không viên thành; Tâm không đầy tràn dục, tâm không (hận) công phá, đoạn tuyệt mọi thiện ác, kẻ tỉnh không sợ hãi…” (Kinh Pháp Cú, phẩm Tâm).

Ngày vía Bồ Tát Quán thế âm là ngày để hàng Phật tử quán niệm đến công hạnh của Ngài; Thí Vô Úy Giả là một trong những thánh hiệu của Ngài; Vô Úy có nghĩa là không sợ, thí vô úy giả là ban tặng năng lực không sợ hãi, không lo lắng cho người để đạt niềm an vui, hạnh phúc trong hiện tại. Trong kinh Pháp Hoa-phẩm Phổ Môn có nói đến “Thập tứ thí Vô úy” là mười bốn đức của Bồ tát Quán Thế Âm đầy lòng Từ-Bi, ban năng lực không sợ hãi giúp chúng sanh dứt trừ mọi khổ nạn, như: Giúp chúng sinh thoát khỏi khổ não, không bị lửa dữ thiêu đốt; không bị nước lớn nhận chìm; không bị ác quỷ làm hại; thoát khỏi đao trượng; không bị ác quỷ, ác thần trông thấy; thoát khỏi gông cùm xiềng xích; thoát khỏi giặc cướp; dứt trừ tham dục; xa lìa nóng giận; đoạn trừ si ám; cầu được con trai; cầu được con gái; niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì được vô lượng lợi ích.

Trong kiếp sống này, chúng sinh luộn bị chìm đắm trong phiền não, những lúc ấy mẹ hiền Quán Thế Âm từ bi cứu vớt chúng sinh vượt qua nguy nan, khổ ách.

B0983B0C 576D 44F9 8E23 80C59B8A4829

B0983B0C 576D 44F9 8E23 80C59B8A4829

Là người con Phật, xin nguyện học theo hạnh của Ngài, để có thể sẻ chia và ban tặng sự bình an, không sợ hãi cho mọi người. Chúng ta hãy nghĩ lại xem, có phải trong một đời người cái “sợ” đã chiếm gần hết cuộc đời này phải không? Lúc bé thì sợ bị rầy la, sợ bị phạt, sợ bóng tối… ; khi lớn lên thì sợ nghèo, sợ thiếu ăn-thiếu mặc, sợ không có công ăn việc làm…; khi có của cải thì lại sợ trộm cướp, sợ lừa đảo, sợ tranh giành, sợ oán thù…; làm điều xấu thì sợ bị tù tội, sợ bị tai tiếng…; đến khi tuổi xế chiều thì lại sợ già, sợ bệnh, sợ chết, thậm chí lúc nhắm mắt xuôi tay rồi mà vẫn còn sợ con cháu tranh giành gia sản, bất hòa anh em… tất cả chỉ vì cái “Sợ” từ hữu hình cho đến vô hình mà làm cho cuộc sống con người luôn bất an và phiền não. Chính vì Đức Bồ tát đã nhìn thấy nổi sợ hãi luôn tìm ẩn trong chúng sinh nên Ngài đã Thí Vô Úy cho mọi chúng sinh để bớt đi sợ hãi trong từng giờ, từng phút trên cõi đời này. Vì thế, người Phật tử phải luôn tu tập theo hạnh của Ngài, trước hết phải tu tập “Tính không” (Không tức thị sắc, Sắc tức thị không), hãy buông xả những vướng chấp bởi bản ngã “cái Tôi” còn quá lớn. Bồ Tát không hề sợ hãi, còn chúng sinh luôn sống trong lo lắng và sợ sệt vì cho rằng tất cả đều là “có”; chính cái “có” ấy là nguyên nhân của mọi sự bất an, sợ hãi, vì cứ nghĩ rằng cái thân này của tôi, ruộng vườn nhà cửa này là của tôi, tiền bạc tài sản này là của tôi, chức tước địa vị quyền hạn này là của tôi, vợ con này là của tôi... cho nên cứ mãi bám víu bằng mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để giữ lấy; Vì thế, để học theo đức Vô úy (không sợ) của Bồ tát, chúng ta cần có một trí tuệ để nhìn thấu vào bản chất của cuộc sống này là vô thường, để thấy rằng vạn vật đều giả tạm, là Huyễn, là Không; Khi con người đến với cuộc đời này với hai bàn tay trắng thì khi từ giã ra đi cũng trắng đôi bàn tay thì có gì đâu phải luyến tiếc, chỉ có mang theo thiện nghiệp hay ác nghiệp mà thôi . Nếu nghĩ được vậy, tâm ta sẽ không sợ hãi, bất biến trước mọi biến động thì ta mới có thể hiến tặng năng lực không sợ cho ta và cho người. “Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến” là rất cần thiết cho cuộc sống ngày nay. Một khi tâm an, không còn lo sợ thì sẽ giúp ta bình tĩnh để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống; người có lòng Từ bi và trí tuệ đi đến bất cứ nơi đâu hay làm bất cứ việc gì cũng đem đến sự hỷ lạc cho bản thân, cho mọi người và mọi loài.

Thí Vô Úy giả là một hạnh rất cần thiết cho người học Phật, rất dễ thực hiện, không tốn nhiều thời gian hay tiền của. Không riêng trong đạo Phật mà ngay trong quan điểm của các nhà tư tưởng trên thế giới cũng rất quan tâm đến tác hại của sự sợ hãi trong kiếp người; Nhà tư tưởng Jiddu Krishnamurti (Indian) đã nhận định rằng: “…Một trong những nguyên nhân chính của sợ hãi là chúng ta không muốn đối diện với chính chúng ta; Trong cuộc đời, sự cạnh tranh, sự so sánh hơn thua… là cội rễ của toàn bộ sự sợ hãi, bởi vì chính nó đã sản sinh ra lòng thèm muốn, đố kỵ, ghen ghét, căm thù... Ở đâu có sự căm thù thì ở đó chắc chắn không có tình thương yêu và sẽ ngày càng tăng thêm sự sợ hãi…”.

Trong cuộc sống, sự lo lắng, sợ sệt, bất an trên nhiều phương diện có thể chiếm hơn 50% trong cuộc đời của một kiếp người; Từ cổ chí kim, con người luôn sống trong sự rượt đuổi tìm kiếm cái hạnh phúc giả tạm, bất chấp mọi thủ đoạn cũng bởi “Cái Tôi” quá lớn, không chịu buông xả. Là người phàm thì không sao tránh khỏi chữ “Sân” dù ít hay nhiều, chỉ cần một chút bất như ý khởi lên thì sân giận và bất an xuất hiện, thực chất đó chính là sự sợ hãi; về căn bản, sân giận xuất phát từ vô minh và tham muốn. Quy luật “Thành, trụ, hoại không” hay “Sinh, già, bệnh, chết” trong dòng luân chuyển của vũ trụ nhân sinh; con người có được gì đâu mà sợ bị mất, vì thế Đức Phật và Bồ Tát muốn cho chúng sinh nhận thấy rằng tấm thân Năm uẩn này là là hư huyễn; Hiểu được bản chất của sự vật thì ta sẽ cảm thấy an lạc, thong dong và tự tại mà không hề lo sợ bất cứ điều gì; Chỉ có tình yêu thương và lòng bi mẫn trong tâm của mỗi người là liều thuốc hữu hiệu để tự điều trị chứng bệnh sợ hãi, vì thế để trở thành người Vô úy thì trước hết mỗi hành giã cần phải “Sống tỉnh thức” trong thực tại.

Những người con Phật hôm nay, hãy học và hành theo đức hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm, tự khai ngộ chân lý sống bằng lòng từ bi và tuệ giác cho chính mình, để “Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên; Nhìn rõ quê hương ngồi nghĩ lại mình; Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống; Vì đất nước cần một trái tim”(Trịnh Công Sơn). Vâng, đó chính là một trái tim của lòng Từ-Bi, một trái tim của sự Vô Úy đang rất cần nơi mỗi hành giã Như Lai trong cõi phù sinh còn lắm vô minh này.

Nguyễn Hưng-Minh Trí