Trăng Và Thu
Đã có quá nhiều người yêu trăng theo cách riêng của họ. Lý Bạch sinh thác vì trăng, Tản Đà buồn nhân gian muốn lên cùng Nguyệt tỷ, Tô Đông Pha vì trăng mà phóng tác nên bài từ phẩm “Thủy điệu ca đầu”. Mỗi người đều có cách riêng và tinh tế theo từng ngữ ngôn mà họa nguyệt. Song, cứ mỗi độ thu về thì từ phẩm của Tô Thức lại cho ta mỗi dịp để ngắm nhì trăng theo cái nhìn của Đông Pha cư sĩ – người mệnh danh là Bát đại gia Đường Tống.
Khác với thi tiên Lý Bạch, Tô Thức qua bài Thủy điệu ca đầu – Đông Pha cư sĩ không quá chú trọng vẻ mỹ miều của vầng nguyệt. Có thể liên tưởng Lý thi tiên yêu trăng với vẻ hiện thực (sàng tiền minh nguyệt quang – tĩnh dạ tứ) thì Đông Pha yêu trăng với vẻ suy ngâm (minh nguyệt kỉ thời hữu – trăng có tự bao giờ?). Một người yêu trăng và một người yêu cái cuộc luân vũ không hạn hữu của trăng, và trong cái cuộc luân vũ đó, ta chẳng biết “trăng có tự bao giờ”. Đông Pha đã đặt một nghi vấn nan tư nhưng cũng cho ta một lời minh bạch “trăng đã có đó từ muôn ngàn chuyển xoay của hóa tạo”. Thật khó để hình dung nếu chúng ta không nhìn qua nhãn quang của nhà Phật – Tô Thức đã nói lên cái điểm luân hồi không định xứ của thế gian, và trăng cũng là một trong số đó.
Có thể nói cả bài từ phẩm, tô Thức chưa bao giờ thôi niệm niệm về trăng mà đỉnh điểm của sự minh triết về trăng, Đông Pha đã gói gọn: “Nhân hữu bi, hoan, ly, hợp/Nguyệt hữu âm, tình, viên, khuyết/Thử sự cổ nan toàn (Người có buồn, vui, ly, hợp/Trăng có tỏ, mờ, tròn, khuyết/Tự cổ có vẹn toàn đâu)”. Nói theo cái nhìn của nhà Phật thì Đông Pha cư sĩ đã có cái nhìn chân thật về vạn hữu, rằng có gì trên đời là vẹn toàn đâu. Đông Pha yêu trăng mà cũng không quên cái tạm bợ của trăng và nhân hữu, đó mới là cái yêu trăng tự tại.
Có thể nói thi tiên lý bạch yêu trăng theo cái nhìn của Lão gia, Đông Pha yêu trăng bằng cái nhìn của Thích tử. Và Đông Pha suy ngẫm về trăng ngay lúc trăng thu là đẹp nhất. Ở nơi cái tuyệt diệu của thế gian mà thấy được cái vỏ bọc không vững bền của nó. Dù trăng thu hay trăng và thu đều cũng chỉ là cái đẹp của sự tạm bợ, không vững bền, chấp nhận cái không vững bền mới là trăng thu tuyệt diệu.
Ở cuối bài Đông Pha có tỏ “chỉ mong người dài lâu/ngàn dặm dưới trăng thâu”. Đông Pha đã gửi gắm tâm tình vào kiếp sống, rằng càng vô thường tạm bợ thì càng phải biết trân quý”, trân quý ở đây không có nghĩa là bám chấp mà trân quý có nghĩa là nhìn nhận thật sâu sắc để thấy được ánh trăng miên viễn trong mình. Đừng để “trăng xưa trăng nay còn soi bóng/ người đó người đây đã khác lòng”. Yêu trăng cũng như tâm mình vậy, dù nó ẩn hay hiện vẫn luôn cảm nhận, luôn thấu soi.
Ánh trăng rạng ngời là ánh trăng của lòng người nhìn mà không bám chấp.
Vậy nên, chúng ta ai cũng yêu cái đẹp nhưng đừng để cái đẹp chi phối tâm mình. Chúng ta, ai cũng ghét cái xấu nhưng đừng để cái xấu ảnh hưởng tâm mình. Đó mới là “tự tại nhân gian”.
Nhân Trần